Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2009

các bài đã đăng trên Yahoo 360

Entry for April 12, 2009 - Nỗi sợ hãi của dân tộc

Càng ngày càng có nhiều "đồng chí" tham gia vào tầng lớp "không sợ hãi", Đồng chí Nguyễn Ngọc không có dịp đi công tác ở Pháp như đồng chí Bùi Tín nên chỉ viết có thế này thôi. Thế cũng là an ủi cho sự nghiệp phục vụ cho Đảng mấy chục năm rồi. Kể cả những bài phát biểu về Tây nguyên, về tác hại của việc khai thác bô-xít, đáng để bọn "hành lang an toàn" phải suy ngẫm lại.

Nên phổ biến rộng rãi.


Nguyễn Ngọc

Viết cho BBCVietnamese.com từ Đà Nẵng

Từ thời sống trong rừng thiêng nước độc đến ngày nay, người Việt có nhiều nỗi sợ

Một ông nông dân gọi cho tôi giọng có vẻ nghiêm trọng, nói sẽ cung cấp thông tin về mấy cán bộ thôn, xã làm việc bậy bạ, sai nguyên tắc.

Ông nói qua điện thoại nghe giọng run run, kêu tôi đừng tới nhà, chạy xe qua xã khác rồi gặp nhau nói chuyện. Vậy là phải chạy thêm mấy cây số. Cuối cùng, nghe ông nói thầm vô tai toàn những chuyện biết rồi.

Vừa buồn cười, vừa tội nghiệp cái kiểu sợ quan của ổng. Sợ vậy hèn chi không bị đè đầu cưỡi cổ mãi cho.

Nghĩ nhiều, và nghiệm ra rằng cái đặc tính cố hữu của dân Việt mình là sợ. Có lẽ do xa xưa dựng nước mở cõi ở cái xứ rừng thiêng nước độc, nhiều mối đe dọa nhiều thú dữ, rắn rết... nên họ luôn phải sống trong nơm nớp lo sợ. Riết rồi thành quen, sợ mãi, cái gì cũng sợ. Luôn phải rụt mình lại trong tương quan với thế giới xung quanh.

Quây thành bầy đàn

Sợ nên phải sống quần tụ với nhau thành từng bầy đoàn, rồi thành từng làng khép kín. Nhiều người cho rằng tính cộng đồng, làng xã của dân mình có nguyên nhân từ văn hóa nông nghiệp, cần sự tương trợ, hợp sức lẫn nhau. Tôi nghĩ có khi cái đó chỉ là sau này thôi, còn nguyên nhân đầu tiên để người ta sống co cụm, dựa vào nhau đó là sự sợ hãi. Cuộc sống càng có nhiều bất trắc, hiểm họa từ xung quanh thì người ta càng sống gắn kết, quần tụ với nhau. Số đông luôn làm người ta yên tâm hơn, ít sợ hơn.

Từ thuở còn hoang sơ, dân mình đi chài lưới đánh cá dưới sông hay bị thuồng luồng ăn thịt. Dân lo sợ. Dân đến hỏi vua, vua mới bày cho dân một cách: các giống thủy quái nó hại mình là bởi mình khác nó, vậy cứ xăm lên người các hình thủy quái giống nó thì nó sẽ không hại mình nữa. Dân làm y vậy và không ai bị thuồng luồng hại nữa thiệt. Cũng từ đó xăm mình thành cái tập tục của người Việt.

Ta mà còn đê hèn vậy, mong gì ai trọng ta.

Phan Khôi

Đó chẳng qua chỉ là một "chiêu" của vị vua hiền minh giúp thần dân vượt qua được nỗi sợ hãi, yên tâm làm ăn thôi. Chứ làm gì có thuồng luồng, mà có thì nó cũng sợ gì mấy cái hình xăm kia.

Danh tướng Lý Thường Kiệt sau cũng dùng "chiêu" này. Để kích động sĩ khí, làm át đi nỗi sợ hãi của quân lính, ông cho người vào một ngôi đền thiêng ở gần đó đọc mấy câu thơ "thần": "Nam quốc sơn hà nam để cư....".

Bài "thơ thần" này có hướng đến đối tượng nghe là quân Tống không? Xin thưa là rất ít có khả năng đó. Quân Đại Việt ở bên này phòng tuyến sông Như Nguyệt, giặc đóng bên bờ Bắc con sông. Giữa chốn chiến trường ồn ào, hỗn loạn và cách nhau một con sông làm sao giặc bên kia sông nghe được bài thơ phát ra từ một ngôi đền thiêng bên này. Mà có nghe thì cũng chẳng có lí do gì để nó nghĩ đó là "thơ thần", quân Tống chân ướt chân ráo qua đất này, có biết đền nào là thiêng hay không thiêng.

Vậy thì có thể nói bài "thơ thần" này chỉ là đọc cho lính mình nghe, để diệt cái nỗi sợ hãi, giúp phấn chấn tinh thần mà xông lên chiến đấu thôi.

Sức mạnh dân tộc chỉ trỗi dậy khi nỗi sợ hãi tan biến.

Từ sợ đến hèn

Thế nhưng dân mình hay sợ quá, lắm khi thành hèn.

Thời Pháp thuộc, ông Thống đốc Nam kỳ có ra một cái trát lệnh cho các quan Pháp phải đối đãi lễ phép hơn với người An Nam, không được để dân An Nam phải vái lạy. Không cho lạy rồi, nhưng dân An Nam mình quen tật, cứ thấy quan là lại... khòm lưng lạy.

Hồi trước đó vua Thành Thái cũng đã có ra chỉ dụ là dân không được lạy người sống, ấy thế mà dân cứ lạy mãi. Quái chưa, không cho lạy mà cứ lạy.

Vì sao? Vì sợ. Đến nỗi cụ Phan Khôi cũng ngán ngẩm nói: "Ta mà còn đê hèn vậy, mong gì ai trọng ta". Rồi cụ còn cười buồn mà rằng dân mình cứ vái lạy mãi thế "có khi khỏi phải tập thể thao". (Theo Phan Khôi- Tác phẩm đăng báo 1928, Lại Nguyên Ân)

Từ thuở khai thiên lập địa đến bây giờ dân minh cứ sợ mãi, sợ triền miên. Và bây giờ cũng còn sợ vậy thôi.

Nguyễn Ngọc

Nói chi thời Pháp thuộc, ngay đến thời XHCN rồi, mà dân còn sợ, còn lạy. Ở các đợt "Cải cách ruộng đất" những năm 50 của thể kỷ trước, khi các anh đội trẻ măng xuống xã, xuống làng làm "cải cách", mấy cụ già tóc bạc nhìn thấy từ xa đã đứng nép sát một bên đường vái lạy dồn dập "con lạy cụ đội". Lúc đó mà "cụ đội" chỉ nhếch mép trách cứ chi một cái là dân hồn vía lên mây.

Từ thuở khai thiên lập địa đến bây giờ dân mình cứ sợ mãi, sợ triền miên. Và bây giờ cũng còn sợ vậy thôi.

Dân đến cơ quan nhà nước thì vẫn cứ quen khúm núm, em em- anh anh, vẻ mặt sợ sệt. Ra đường, dù chẳng sai phạm gì, mà thấy công an giao thông tim vẫn đập loạn xạ.

Xem mấy tờ báo trong nước im thin thít, không dám nói một lời nào trong đợt kỷ niệm 30 năm cuộc chiến Việt- Trung (17/2/1979- 17/2/2009) vừa rồi cũng rõ. Tất cả chìm trong sự im lặng của sợ hãi.

Làm sao để đập tan, thoát ra khỏi cái nỗi sợ dai dẳng, triền miên của dân tộc mình đây, để sức mạnh của dân tộc trỗi dậy? Làm sao?

Xin nhắc lại một lần nữa câu của cụ Phan Khôi để kết thúc bài này: "Ta mà còn đê hèn vậy, mong gì ai trọng ta".



Sunday April 12, 2009 - 04:16pm (ICT)



Entry for April 07, 2009 -
"...Tụi mày thua trận rồi thì im cái mồm lại đi nghe. Ký tên: TAO.”
Ai thắng ai bại?
Friday, April 03, 2009






Ngô Nhân Dụng


Hôm qua Nhật Báo Người Việt đã đăng một “thư độc giả” phản ứng trước bài “Một chính quyền thối nát” của nhà văn Trần Khải Thanh Thủy. Thực ra đây không phải là phản ứng từ một “độc giả bình thường” đọc bài của Trần Khải Thanh Thủy, mà rõ ràng từ một cán bộ văn hóa tư tưởng của chính quyền Cộng Sản được bà nói tới trong bài này. Ông công an văn hóa tư tưởng này viết rằng “...Tụi mày thua trận rồi thì im cái mồm lại đi nghe. Ký tên: TAO.”

Có một nhầm lẫn lớn trong một dòng chữ này. Tác giả bức thư coi tất cả những người chỉ trích chế độ Cộng Sản đang cai trị nước ta đều là những người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975. Cho nên anh ta (hay chị ta) mới gọi là “tụi mày thua trận rồi...” để yêu cầu “im cái mồm lại.”

Nhưng nhà văn Trần Khải Thanh Thủy không sống một ngày nào trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Cô không thuộc hàng ngũ những “ngụy quân, ngụy quyền,” hay “ngụy dân” đã từng thất bại trên chiến trường vào năm 1975 và sau đó bị những người thắng trận đầy đọa bằng nhà tù lớn, nhà tù nhỏ khi áp đặt chủ nghĩa xã hội của họ trên miền Nam. Những người kể trên là những người thua trận thật, còn Trần Khải Thanh Thủy thì khác. Cô là một cô gái trưởng thành trong chế độ Cộng Sản, được uốn nắn theo lối giáo dục của Cộng Sản, đã làm việc trong chế độ đó. Chính vì vậy nên bản thân cô có kinh nghiệm về những tai họa mà chế độ Cộng Sản gây ra trên đất nước ta. Chính vì vậy nên cô đã nêu lên những ý kiến phải thay đổi chế độ tai hại đó, hậu quả là bây giờ cô bị cả bộ máy của đảng và nhà nước Cộng Sản khủng bố. Bài “Một chính quyền thối nát” cô viết đăng trên Nhật Báo Người Việt trong mấy ngày qua chỉ tả lại những hành động khủng bố của các tay chân của chế độ Cộng Sản (công an đến dân phòng, bảo vệ...) đối với gia đình cô trong đêm trước ngày các giáo dân Thái Hà ra tòa phúc thẩm. Guồng máy công an chỉ tìm cách ngăn cản không cho cô tới coi phiên tòa được mà thôi. Cô gửi cho cả hình ảnh những uế khí mà các tay khủng bố này đổ ra đầy trước cửa nhà cô vào lúc ba giờ sáng; và thuật lời chồng cô kể “chúng nó... không dám xách xô phân trộn dầu đổ như cũ (như lần trước) mà đứng cách một mét hất thẳng vào rồi bỏ chạy.”

Bài văn của Trần Khải Thanh Thủy rất trào lộng. Ba giờ sáng cô ra cửa, “Trước mắt tôi nhoe nhoét tư tưởng Hồ Chí Minh trải khắp bậc cửa nhà, không còn một chỗ để đặt chân.”

Có lẽ mấy ông công an tư tưởng văn hóa đọc tới đây thấy Trần Khải Thanh Thủy ví những xú uế với tư tưởng Hồ Chí Minh cho nên giận quá mất khôn. Họ theo đúng bài bản mà ban tư tưởng văn hóa của đảng soạn sẵn, cho nên coi cô cũng là “thành phần phản động nặng” rồi chửi như thường lệ, “tụi mày thua trận rồi... im cái mồm lại.”

Trần Khải Thanh Thủy cũng giống như những nhà trí thức Việt Nam khác, những người trẻ tuổi như Nguyễn Văn Ðài, Lê Thị Công Nhân, Ðỗ Nam Hải, vân vân; họ là những người đã sống trong chế độ gọi là “xã hội chủ nghĩa.” Họ đã nhìn rõ những sai lầm tai hại trong cuộc sống mà đảng Cộng Sản ép dân ta phải theo từ hơn nửa thế kỷ nay. Lực lượng đối kháng tiềm tàng nguy hiểm nhất đối với đảng Cộng Sản hiện nay là những người dân đã sống hoàn toàn trong chế độ đó. Những thanh niên trí thức yêu nước đã sống trong chế độ của họ nên biết rõ chế độ đó như thế nào có khả năng kết hợp các nông dân, công nhân bị bạc đãi để gây một phong trào đòi thay đổi. Chính quyền Cộng Sản không biết cách đối phó với phong trào mới này ra sao nên mới khủng bố từng người một, và gán cho những người đó thuộc vào phe những người “thua trận,” giống như mọi người lính, người dân sống trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975.

Nhưng tới đây chúng ta thấy một câu hỏi lớn hơn: Thực sự thì ai là những người thua trận?

Câu trả lời tùy thuộc cách chúng ta nhìn mặt trận đó là trận tranh đấu nào.

Quý vị có thể định nghĩa trong giới hạn một trận chiến tranh, bắt đầu từ năm 1958 khi đảng Cộng Sản ở miền Bắc bắt đầu xâm nhập, đánh phá, rồi tiếp tục đem quân tấn công miền Nam cho đến năm 1975 thì kết thúc. Nói về cuộc chiến tranh đó, thì phe Việt Nam Cộng Hòa đã thua trận.

Nhưng tại sao có cuộc chiến tranh Nam Bắc trong 17 năm đó? Cuộc chiến này cũng chỉ là một giai đoạn trong một cuộc tranh chấp lớn hơn và lâu dài hơn, giữa những người Việt Nam theo chủ nghĩa Quốc Gia và những người Cộng Sản theo một chủ nghĩa quốc tế. Trước năm 1930, những người làm cách mạng chống Pháp ở nước ta đã có hai khuynh hướng khác biệt. Nhiều người chủ trương đuổi bọn thực dân đi rồi xây dựng một quốc gia độc lập, thiết lập một chế độ tự do dân chủ. Tiêu biểu cho phong trào này là những Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, cho tới Nguyễn Thái Học, truyền xuống tới các đảng phái quốc gia sau này như Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt, Duy Dân, và đảng Dân Chủ Xã Hội do Ðức Thầy Huỳnh Phú Sổ lập ra ở miền Nam, vân vân.

Ðối nghịch với khuynh hướng đó là những người theo chủ nghĩa Cộng Sản, chủ trương đặt cuộc tranh đấu của người Việt Nam vào trong một cuộc cách mạng lớn khắp thế giới, họ theo một chủ nghĩa quốc tế. Trong phe quốc tế này, nhóm Ðệ Tam đã tìm cách tiêu diệt những người Ðệ Tứ như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, rồi tấn công tới những người theo khuynh hướng quốc gia.

Cuộc chiến giữa hai khuynh hướng quốc gia và quốc tế bắt đầu từ 1930 trước hết là một cuộc tranh chấp về tư tưởng lập quốc. Xóa bỏ chế độ vua quan phong kiến, đánh đuổi thực dân rồi, người Việt Nam sẽ sống với nhau theo mô hình chính trị, kinh tế nào? Ðó là câu hỏi căn bản phân biệt giữa các đảng phái quốc gia và phe Cộng Sản đệ tam. Ðó là nguyên nhân gây ra những vụ đổ máu ngay trong lúc người Việt còn đang lo đánh Pháp giành độc lập. Khi Hồ Chí Minh theo ý kiến các cố vấn Trung Cộng làm cải cách ruộng đất, ông ta vẫn không quên nhân cơ hội đó tiêu diệt tất cả những người không thuộc thành phần mà đảng Cộng Sản có thể tin cậy. Những người góp công lao vào cuộc kháng chiến rất nhiều cũng bị sát hại, nhiều người đã bỏ Cộng Sản để về theo chính quyền quốc gia, tới năm 1954 đã mở ra một giai đoạn mới, Việt Nam bị chia thành hai miền sống trong hai thể chế khác nhau. Ðến năm 1975 phe quốc gia thua trận, điều này không ai chối cãi.

Nhưng cuộc tranh chấp thực sự giữa hai phe không bắt đầu bằng vũ khí và cũng không phải chỉ nằm trong mặt trận quân sự. Khi cụ Phan Bội Châu lên tiếng bài bác chủ trương làm “cách mạng vô sản” ở Việt Nam, cụ đã vạch rõ nước ta lúc đó không hề có giai cấp tư bản cũng không có giai cấp vô sản. Những nhà ái quốc đã bị Cộng Sản ám hại như Trương Tử Anh, Lý Ðông A, Huỳnh Phú Sổ cũng đều lấy dân tộc làm căn bản, chống lại chủ trương đấu tranh giai cấp của đảng Cộng Sản.

Cho nên, cuộc tranh chấp giữa hai phe Quốc Gia và Cộng Sản đầu tiên là một cuộc đấu tranh về tư tưởng chính trị. Nói theo lối Cộng Sản, đó là một cuộc chiến tranh ý thức hệ. Cho nên cuộc tranh chấp đó cũng không được giới hạn trong biên giới một nước, không quyết định qua một cuộc chiến tranh ở một đất nước, dù đó là một cuộc chiến đã làm chết mấy triệu người Việt Nam. Cuộc đấu tranh giữa những người Quốc Gia và những người Cộng Sản ở Việt Nam nằm trong một cuộc chiến toàn cầu giữa trào lưu tư tưởng tự do dân chủ đối nghịch với phong trào Cộng Sản thế giới.

Từ những năm trong thập niên 1940, 50 trên thế giới đã nhiều người nhìn thấy chế độ Cộng Sản không thể tồn tại lâu dài được, vì nó đi ngược lại với bản chất con người và xã hội loài người. Nhiều người đã nhìn thấy chế độ Cộng Sản không hề giải phóng loài người như họ vẫn hứa hẹn, mà ngược lại còn nô lệ hóa con người. Nhưng các phong trào Cộng Sản vẫn bành trướng được vì những nước lớn như Nga và Trung Quốc thấy có thể lợi dụng các phong trào Cộng Sản ở từng nước nhỏ khác mà xây dựng đế quốc của họ, tiếp tục tham vọng của những hoàng đế Nga và Trung Hoa đời trước.

Ðến năm 1975, có thể coi là phong trào Cộng Sản thế giới đã lên tới đỉnh cao nhất. Nhưng trong nội bộ các nước Nga và Trung Quốc, chế độ Cộng Sản đã tàn hại chính các dân tộc này. Vụ sụp đổ của các nước Cộng Sản từ năm 1989 cho thấy từ căn bản chủ nghĩa Cộng Sản đã thất bại. Cộng Sản thất bại khắp trên thế giới, ngay tại những nước vẫn còn mang nhãn hiệu Cộng Sản như Trung Quốc, Việt Nam, thì chính các đảng Cộng Sản ở đó cũng đã quay đầu đi ngược về hướng kinh tế tư bản, trở thành những chế độ độc tài dựa trên độc quyền về kinh tế và chính trị, trống rỗng về mặt tư tưởng.

Trong trận chiến đấu quan trọng nhất là tranh chấp tư tưởng và ý thức hệ, khối Cộng Sản đã thua, hoàn toàn phá sản. Bây giờ những người mang tên đảng Cộng Sản ở Việt Nam chỉ là mạo danh một chủ nghĩa lỗi thời, lợi dụng những thần tượng đã tan vỡ, để bảo vệ những quyền lợi thủ đắc của một giai cấp tư bản mới. Khi nhìn lại cuộc tranh chấp giữa hai phe Quốc Gia và Cộng Sản ở nước ta, cho tới giờ thì phải công nhận là cuối cùng là phe Cộng Sản đã “thua trận.” Chính họ đang tự cởi bỏ chủ nghĩa Cộng Sản, và không biết có gì để thay thế nên chỉ biết chạy theo chủ nghĩa kim tiền!

Cho nên bà Trần Khải Thanh Thủy chắc không lo ngại gì khi bị công an tư tưởng văn hóa của chế độ Cộng Sản quấy rối, phá phách. Vì bà biết mình đang đứng trong hàng ngũ những người thắng trận. Một ngày mai dân Việt Nam sẽ phải được sống trong một chế độ dân chủ tự do lành mạnh, khi đó người Việt sẽ ghi giai đoạn nước ta sống dưới chế độ Cộng Sản như một cơn ác mộng ngắn trong lịch sử dân tộc. Và trong một hai thế hệ nữa, mọi người sẽ quên cả chủ nghĩa Cộng Sản lẫn đảng Cộng Sản. Vì trong mỗi con người cũng như trong lịch sử một dân tộc, không ai muốn nhớ những cơn ác mộng.


Tuesday April 7, 2009 - 05:42pm (ICT)



Entry for April 06, 2009 - Cá Tháng Tư

Nhà "Sử thật" Dương Trung Quốc tự phỏng vấn nhân ngày Cá tháng Tư (có thêm phỏng vấn và trả lời thay của "sử giả")

Lao động cuối tuần 01/04/2009


Bài này của nhà sử học DTQ (Sử thật), nay "sử giả" mới nhặt được đem về tán dóc chơi, tuy hơi muộn nhưng vẫn còn mang tính thời sự nóng bỏng... đít!


"...Như vậy, trong ngày ấy (ngày cá tháng tư), nói dối là vô hại? - (sử thật hỏi ST)


- ... Nói vô hại là không hoàn toàn đúng, có thể có người vì tin mà hỏng việc, nhưng nếu đặt lên cân thì "hại bất cập lợi". Bởi lẽ có được một cảm giác vui, một sự bất ngờ "cảm giác mạnh", bật ra được một nụ cười... cũng rất có lợi, nhất là với những ai quanh năm phải nhọc nhằn hay quá căng thẳng với công việc của mình. Nói thời thượng là "xả stress". - (ST trả lời ST)


Ông là đại biểu QH, ông nghĩ sao về câu nói của TT NTD: Khai thác Bô-xít là chủ trương lớn của NN (chính xác là của 15 "ông kẹ" trong Bộ Chính trị)? Có thể coi đó là "nói dối cá tháng tư" chăng? - ( "Sử giả" phỏng vấn ST)

- TT nói trước ngày 01/04 nên không thể xem đó là "nói dối cá tháng tư" được, mà theo tôi, cái "chủ trương lớn" đó hoàn toàn là dối trá, bịp bợm. Nó nguy hại thực sự, dù đã được cảnh báo bởi các nhà khoa học, các nhân sỹ trí thức, các tướng lãnh cựu trào, kể cả người trong cuộc (Báo cáo của TS Nguyễn thành Sơn về tác hại của bô-xít)... Bỏ ngoài tai mọi sự cảnh báo đó, người ta đang vội vàng đổ quân (Tàu) vào Tây nguyên khai thác hối hả. - (SG trả lời thay cho ST).

...


Thế thì với một người làm nghề viết sử như ông thì nghĩ gì về cái
"sự nói dối" ấy? - (ST hỏi ST)


- Không nên tuyệt đối quan niệm "nói dối là xấu", vấn đề là tính mục đích của hành vi. Và cũng không nên nghĩ rằng người làm sử lúc nào cũng nắm (để nói) được "sự thật". Sự thật là một nhận thức cái khách quan bằng cái năng lực chủ quan của mình. Do vậy, nó là một quá trình tiếp cận, đôi khi đảo ngược, đôi khi phải chấp nhận cả những gì tưởng chừng phi lý... Nhưng đây là câu chuỵện dài trao đổi vào một dịp khác. Trở lại với "Cá tháng Tư" thì cái mà ta gọi là "sự nói dối" ấy còn cần đuợc nhìn nhận như một nhu cầu của đời sống... - (ST trả lời ST)

Ông lại "biện chứng" cho "tính mục đích của hành vi" của "chủ trương lớn" chứ gì? - (SG phỏng vấn ST)

- Câu hỏi này không liên quan gì đến cá tháng tư, vì tính mục đích và hành vi "khai thác bô-xít là chủ trương lớn của NN" đã trở thành hiện thực, dựa trên sự lập lờ đánh lận con đen, ru ngủ quần chúng, là sự thật, nên quan điểm của tôi ở đây là "nói dối là xấu".

Không, không cần biện chứng biện chủng gì sất, nó rành rành như vậy rồi. Mục đích là bán nước, hành vi là đặt chuyện đã rồi và "nín thở qua sông", chờ dư luận nguôi ngoai như các vụ "siêu nghiêm trọng" trước đây. Tôi coi đó là chủ trương ngu xuẩn lớnnguy hiểm lớn nhất từ trước tới nay. Tôi là nhà viết sử, đã từng viết rất nhiều về đảng CS này, nhưng chỉ viết bằng năng lực chủ quan của mình, nghĩa là viết cho "quan chủ của mình", theo đơn đặt hàng của "quan chủ của mình", chấp nhận cả những gì tưởng chừng phi lý, thật ra là thậm phi lý...Nó sẽ dẫn tới... ngày nào, năm nào cũng toàn là "cá tháng tư"!

Nhưng giờ đây, đứng trước nguy cơ mất nước thực sự, tôi không thể im lặng được nữa, tôi phải viết ra sự thật, nói lên sự thật. Viết và nói sự thật bằng nhận thức khách quan của mình. Tôi muốn đứng về phía tổ quốc và nhân dân, đại diện cho nhân dân thét lên tiếng nói: "Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến... Giặc Tàu đằng đằng, nội địa rung chuyển!.." - ("sử giả" trả lời thay cho "sử thật").

... Cái nhu cầu ấy suy cho cùng thật đơn giản, đó là con nguời cần đến cơ hội được... cười một cách vô tư. Bạn chẳng thấy bây giờ nhiều nơi người ta lập những câu lạc bộ đến gặp nhau chỉ để cười và y học khẳng định là cười có ích cho đời sống và sức khoẻ.

Vậy thì tại sao ta không ăn "Cá tháng Tư" quanh năm mà mỗi năm chỉ được phép "chén" một lần? - (ST hỏi ST)

- Được cuời quanh năm là điều tốt, nhưng "nói dối" quanh năm thì chắc chắn không (!?) là không tốt và chẳng thể gây cười được, đôi khi phát khóc. Chuẩn mực xã hội cũng như công nghệ lại ngày càng đòi hỏi sự minh bạch và chính xác. Và trong thực tế thì cuộc sống quanh năm đòi hỏi sự cảnh giác, tỉnh táo trong việc xử lý các thông tin thì mới thành công được. Cạnh tranh khiến cho sự dối trá kể cả sự lừa lọc có nguy cơ càng trở nên phổ biến vì thế việc đấu tranh chống lại sự giả dối cũng lại là một nhu cầu của đời sống. Có lẽ cũng chính vì cái nhu cầu đề kháng với sự nói dối có hại ấy mà nẩy sinh nhu cầu có được những cơ hội và cách "nói dối" vô hại và "Cá tháng tư" đáp ứng được cái nhu cầu đó? - (ST trả lời ST)

Liệu có thể một ngày nào đó "Cá tháng Tư" sẽ chết không? - (ST hỏi ST)

- Chắc chắn nó sẽ không chết mà rất có thể nó ngày... nào cũng là cá tháng tư. Sự dối trá ban đầu chỉ được xem là cá tháng tư, thì nay nó đã trở thành thông lệ mãn tính, biến sự dối trá...càng cần hơn cho cuộc sống và nó sẽ ngày càng "trí tuệ" hơn vì con người luôn có bản năng cảnh giác với sự dối trá...thật và dối trá...giả. Nhờ có sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông, nó sẽ thu hút được nhiều người quan tâm hơn và không những chỉ gây hoang mang lẫn lộn (thật giả) lâu dài mà nó sẽ đem lại sự bất lực buông xuôi hơn trong cuộc sống đầy thử thách quanh năm suốt tháng.

Nếu bạn phân tích một vụ nói dối để lừa người khác trong cuộc sống thường ngày với món "Cá tháng Tư" thì thấy chúng chẳng mấy khác nhau, vì nó thuờng tình đến nỗi chẳng ai thèm quan tâm. Thế nên những điều nói dối trong ngày 1.4 và 364 ngày khác thường không cần phải giải toả vì mọi người nhận ra rằng ngày nào cũng là ngày "Cá tháng Tư", và những người đưa ra những trò đùa thực hư ấy thường thản nhiên làm cho mọi người tin vào sự dối trá hơn là tin vào sự thực, dù nó có thể gây rắc rối, và đó cũng là lúc tiếng cười man rợ của thần chết được cất lên. - (SG & ST... hợp ca)

... Tóm lại "Cá tháng Tư" cũng có thể gọi là "Ngày cảnh giác với sự dối trá".

* Bản quyền xin nhường hết cho "Sử thật".


Monday April 6, 2009 - 02:55pm (ICT)



Entry for April 05, 2009 - "Này Sinh viên ơi, đứng lên đáp lời sông núi..."

Phản hồi:

Sinh Viên Đại học Hồng Bàng

phản đối tăng học phí

Nguồn: Dân Luận ngày 03/18/09

Bức thư ngỏ này chúng tôi nhận được như một ý kiến phản hồi trên Dân Luận. Xét thấy nó chứa đựng những thông tin có liên quan tới sự việc, để rộng đường dư luận, chúng tôi xin đăng thành một ý kiến riêng ở đây.

Kính gửi tòa soạn, kính gửi thầy hiệu trưởng và những người có trách nhiệm trong ban giám hiệu.

Em là một sinh viên năm cuối của khoa Mỹ thuật công nghiệp, Em xin nói một vài ý kiến về viêc tăng học phí tới mức "quá đáng" của nhà trường.

- Thứ nhất: Thầy Hùng (Hiệu trưởng) nói "khi tăng học phí, nhà trường sẽ tăng cơ sở vật chất, chất lượng đào tạo, mời giáo sư về giảng dạy nhiều hơn, thậm chí cả giáo sư nước ngoài".

Hơn 100 SV tập trung trước cổng trường để phản đối việc tăng học phí. Ảnh: Gia Tiến

Nhưng em xin thưa với thầy là em đã học 4 năm ở trường "của" thầy, nhưng từ khi còn là tân sinh viên mới chân ướt chân ráo vào trường, được nghe bao nhiêu "hoài bão" của thầy về sự phát triển của trường và đến bây giờ sau 4 năm học thì e vẫn thấy những gì thầy nói với chúng em từ năm thứ nhất vẫn còn nguyên "giá trị" của nó vì chưa có gì thay đổi mặc dù học phí cứ tăng đều đều theo từng năm học.

Năm 2005 thầy đón tân SV vào trường (trong đó có em) thầy đã nói là đang xây một trung tâm đại học Hồng Bàng với cao ốc 10 tầng, có tầng hầm để xe ở trên đường Điện Biên Phủ quận Bình Thạnh, đến bây giờ "cao ốc" hoành tráng như thầy nói đã hoàn thành với... một hội trường và vài ba phòng học chằng khác nào một trường cấp I. Còn thầy nói mời giáo sư về giảng dạy thì em cũng xin thưa rằng trong suốt 4 năm học em chưa được một người nào có bằng Thạc sĩ giảng dạy chứ đừng nói gì đến Giáo sư.

- Thứ hai: thầy Hùng lại nói "nguyên nhân chính của việc tăng học phí là do nhà trường cần tăng lương cho giảng viên, cán bộ nhân viên nhà trường. Thực tế, ở nơi này nơi khác, họ tăng lương có khi gấp đôi để thu hút giảng viên, chúng tôi cần phải giữ giáo viên của mình lại".

Cái nơi mà thầy nói là nơi "mô" mà em chưa tìm ra?! Em chỉ thấy trường "của" thầy tăng học phí chóng mặt nhưng chất lượng giảng viên và chất lượng giảng dạy vẫn dẩm chân tại chỗ. Về chất lượng giảng dạy thì em xin thưa là trong suốt quá trình học tại trường, từ năm nhất đến năm nay là năm cuối chuẩn bị ra trường thì lớp em chỉ có duy nhất một thời khóa biểu với từng đó môn học (từ năm 1 đến năm 4) và không có gì thay đổi kể cả giảng viên. Chắc có lẽ thầy đang chỉ đạo dạy theo phương pháp “mưa dầm thấm lâu” và nếu học theo phương pháp của thầy thì sv của thầy sẽ mãi ở lại để đóng học phí cho thầy bởi vì họ không thể nào ra trường nổi với cái phương pháp “mưa dầm thấm lâu” của thầy.

Về giảng viên của thầy thì em cũng xin thưa là các giảng viên của các lớp khác họ là ai, bằng cấp như thế nào em không được biết, em chỉ nói về giảng viên của lớp em. Trong lúc giảng dạy các thầy cứ nói thầy học ở trường này trường kia ra, thầy dạy cho nước ngoài…. Và thầy là hội viên của hội Mỹ thuật Tp.HCM, hội viên hội Mỹ thuật Việt Nam. Nhưng khi em trao đổi với họa sĩ Nguyễn Thanh Châu – Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật Hội Mỹ thuật Tp.HCM, phó chủ tịch hội LHVHNT Tp.HCM – Nguyên chủ tịch hội Mỹ thuật Tp.HCM trong 10 năm liền thì tên những “họa sĩ – giảng viên” mà em nói ra thì đều được Họa sĩ Thanh Châu nói là “lạ hoắc” và ông còn nói thêm nếu những người đó là họa sĩ và là hội viên hội mỹ thuật thì chắc chắn là ông sẽ biết vì ông làm chủ tịch hội trong 10 năm, những họa sĩ trẻ ông còn biết huống chi những người đó đã 50-60 tuổi. Còn theo “ngu ý” của em thì chắc các thầy đi dạy lấy một tên, và khi sinh hoạt ở hội thì lại lấy nick name khác?!

Và em cũng còn được biết chắc rằng 1 giảng viên hiện tại đang dạy cho lớp em không có một chút bằng cấp nào về chuyên ngành mỹ thuật nhưng lại được đứng lớp 2 năm rồi. Một dẫn chứng cụ thể về chuyên môn của thầy đó là khi chấm bài, một bài chưa hoàn thành (chưa tô màu xong – bỏ giấy trắng) thì thầy cho điểm 6 với lý do “màu đẹp”, còn 1 bài đã hoàn thành thì lại bị điểm 4 với lý do “màu xấu”. Trơi ơi, em cũng không hiểu nổi thầy chấm kiểu gì khi mà bài người ta chưa làm xong, còn bỏ giấy trắng mà lại được gọi là “đẹp” và cho điểm 6? Nhưng em biết 1 điều là “màu đẹp” thì đi học thêm ở nhà thầy, còn “màu xấu” thì thường xuyên chất vấn thầy về chuyên môn. Em nói một số dẫn chứng trên về giảng viên để thầy Hùng thấy được “chất lượng” giảng viên của thầy “tốt”như thế nào.

Vấn đề cuối cùng em xin gửi đến thầy Hùng về những sinh viên của thầy. Thầy chỉ ngồi trong phòng máy lạnh, đi xe hơi thì sao thầy biết được là có những sinh viên rất nghèo và rất khổ phải lo ăn từng bữa? Em là 1 trong rất ít những sinh viên không phải lo đến vấn đề học phí cho dù thầy có tăng gấp mấy lần hiện nay.

Nhưng vấn đề những người như em trong trường chỉ là số ít, còn số nhiều thì họ vẫn phải đi làm kiếm ngày mấy chục ngàn để trang trải việc học. Thầy có biết một nhóm sinh viên khoa Mỹ thuật đi làm bồi bàn từ trưa tới khuya mà chỉ được có 50 ngàn/1ngày? Thầy có biết sinh viên khoa kinh tế đi phát tờ rơi giữa trưa nắng mà chỉ được có 40 ngàn/1 ngày, sinh viên khoa Công nghệ thông tin đi bán hàng 8 tiếng/1ngày mà lương có 1 triệu/tháng? Và thầy có biết 1-2 giờ trưa sinh viên khoa thể thao phải ra sân phơi nắng làm trọng tài cho những trận đá bóng chỉ để nhận được 40 ngàn đồng?

Và chắc chắn thầy không thể biết được rằng họ phải đi làm như vậy vì gia đình của họ ở ngoài quê có cố gắng hết sức cũng chỉ có thể lo cho họ tiền học phí mỗi ngày 1 tăng để đóng cho thầy thôi, còn mọi chi phí hàng ngày họ phải tự xoay, phải tự lo cho cuộc sống sinh viên của mình. Cơm thì ngày nào cũng phải ăn, tiền nhà, tiền chi phí học tập… cả chục thứ tiền, giá cả thì ngày một tăng, trong khi công việc thì không ổn định.

Đi làm bồi bàn thì lâu lâu mới có việc, phát tời rơi cũng vậy, còn làm trọng tài đá bóng thì tuần cũng chỉ được có mấy buổi. Vậy mà học phí thì cứ ngày 1 tăng, đối với thầy và 1 số người mấy trăm ngàn 1 triệu không là vấn đề gì nhưng đối với những sv nghèo thì đó là 1 con số bao gồm mồ hôi nước mắt của họ trong suốt 1 tháng trời. Thế mà thầy nói tăng là tăng.

Cũng chỉ vì học phí tăng mà nhóm làm tốt nghiệp của em đã có 1 bạn xin thôi học vì không có tiền đóng học phí, và những lớp khác, khoa khác cũng đã có nhiều sinh viên nghỉ học. Bởi vì bao nhiêu hi vọng của họ đã bị vụt tắt, bao nhiêu niềm tin của họ đã bị đạp đổ, sức lực, sự chịu đựng của họ và gia đình đã vượt quá giới hạn. Không có 1 ai cố gắng thi vào ĐH, cố gắng bươn trải để theo con đường mình chọn mà lại từ bỏ nó 1 cách dễ dàng như vậy, họ chỉ từ bỏ nó khi họ cảm thấy không còn đủ sức để đi tiếp con đường đó. Và đợt tăng học phí này là 1 giọt nước làm tràn rất nhiều cái ly.

Thầy làm vậy là để giúp sinh viên hay là hại sinh viên thưa thầy hiệu trưởng “đáng kính” của tụi em?


Sunday April 5, 2009 - 03:23pm (ICT)



Entry for April 05, 2009 -
Chúng ta đang ở trong giai đoạn hậu cộng sản?

Nguyễn Gia Kiểng
Nguồn: Thông Luận, đăng ngày 16/03/2009

“...Sự phủ nhận những giá trị đạo đức, một đặc tính của triết lý Mác-Lênin, đã là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng tham nhũng kinh khủng hiện nay. Người ta tiếp tục chà đạp lên những giá trị đạo đức, cướp đoạt nhà đất một cách trắng trợn, trù dập, sách nhiễu, bỏ tù những người yêu nước lương thiện không phục tùng đảng bằng những tội danh bịa đặt...”

Ngày 3-2-2009 vừa qua, Đảng Cộng Sản Việt Nam tròn 79 tuổi. Hôm sau tôi hỏi một người bạn ở Hà Nội lễ kỷ niệm có linh đình không. Anh trả lời là chẳng có gì cả, và nói thêm: "còn có gì đáng để kỷ niệm đâu anh!". Nhận xét này phù hợp với một quan điểm mà tôi đã nghe nhiều lần, ngay cả từ những quan chức của chế độ: chúng ta hiện đã ở trong giai đoạn hậu cộng sản. Mỗi lần như vậy tôi đều gật đầu cho qua đi bởi vì người trước mặt tỏ ra tin chắc đến mức tôi có cảm tưởng có thảo luận cũng vô ích, chỉ cắt ngang một cuộc trao đổi đang thân mật. Tuy vậy tôi không thể chia sẻ quan điểm này.

Nói tới "hậu cộng sản" là mặc nhiên cho rằng chế độ cộng sản đã chấm dứt. Trong khuôn khổ một cuộc thảo luận để trả lời câu hỏi chế độ cộng sản còn không ta có thể định nghĩa một chế độ cộng sản như gồm ba thành tố:

1/ triết lý Mác-xít ;
2/ lý thuyết kinh tế của Marx thường được gọi là kinh tế Mác-Lênin; và
3/ lý thuyết về cách mạng và nhà nước và vai trò của Đng.


Chúng ta chỉ có thể nói chế độ cộng sản còn hay không sau khi đã nhận diện ba thành tố này.

*


Hãy bắt đầu bằng thành tố kinh tế. Lập luận cho rằng chúng ta đã bước vào giai đoạn hậu cộng sản chủ yếu dựa trên nhận xét là lý thuyết kinh tế Mác-Lênin không còn được áp dụng nữa, đã có xí nghiệp tư, kể cả xí nghiệp nước ngoài và quyền tư hữu cũng đã được chính thức nhìn nhận. Dĩ nhiên đó là những thay đổi quan trọng nhưng chưa đủ để nói rằng chế độ cộng sản đã chấm dứt. Thực ra trong ba thành tố của chế độ cộng sản, lý thuyết kinh tế của Marx là yếu tố ít quan trong nhất, ngay cả dưới mắt những người cầm đầu các nước cộng sản. Ngay từ thế kỷ 19, khi Marx còn sống, nó đã bị l bịch hoá. Marx hoàn toàn không có bất cứ một kiến thức hoặc một kinh nghiệm nào về kinh tế, ông nói về kinh tế không khác gì một em bé chăn trâu nói về chú Cuội. Cuốn Tư Bản Luận (Capital - một cái tên ngộ nghĩnh cho cuốn thánh kinh của chủ nghĩa cộng sản) của ông rất dầy, không phải vì Marx có nhiều điều để viết mà vì Marx không có gì để viết và đã viết loanh quanh. Những ý kiến của nó có thể trình bày được trong vài trang. Trong cuốn Essays in Persuasion, xuất bản năm 1932, J.M. Keynes đã nhận định như sau: "Tư Bản Luận là một cuốn sách lỗi thời, không những sai về mặt khoa học mà còn vô tích sự và vô dụng trong thế giới ngày nay".

Marx cho rằng chủ nghĩa tư bản tự đào hố chôn mình khi tích lũy các phương tiện sản xuất, tập trung tư bản và bần cùng hoá công nhân ; nó sẽ bị giai cấp công nhân vùng lên đánh đổ và trên đống tro tàn của nó, sau một giai đoạn quá độ xã hội chủ nghĩa, một xã hội cộng sản sẽ thành hình trong đó không còn giai cấp và bóc lột, các phương tiện sản xuất là tài sản chung của cả xã hội, không còn khác biệt giàu nghèo, mỗi người đóng góp theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu.

Các chế độ cộng sản chưa bao giờ coi lý thuyết kinh tế của Marx là nghiêm chỉnh. Trên thực tế họ vẫn tùy cơ ứng biến, một thí dụ cụ thể là Chính Sách Kinh Tế Mới của Lenin được áp dụng từ 1921 đến 1928. Sở hữu tâp thể chỉ được hiểu một cách giản dị là tất cả mọi phương tiện sản xuất thuộc về chính quyền; chênh lệch giàu nghèo vẫn được chính thức nhìn nhận, khẩu hiệu "làm theo khả năng hưởng theo nhu cầu" chỉ còn đôi khi được nhắc đến như là một mục tiêu xa vời; lương bổng, lương thực, thậm chí thuốc men, vẫn được cấp theo chức vụ. (Trong bài diễn văn nổi tiếng đọc ngày 25-6-1931, gọi là "Diễn văn sáu điểm", Stalin còn lên án chủ trương bình đẳng lương bổng như là một chệch hướng tư sản!).

Tại Việt Nam hiện nay, cũng như tại Trung Quốc, sự xuất hiện của những doanh nhân và chủ nhân giàu có là một nhượng bộ đáng kể nhưng cũng cần được tương đối hoá. Những nhượng bộ này cũng đã từng có tại Liên Xô cũ và Trung Quốc, dù ở một mức độ thấp hơn, ngay trong giai đoạn cộng sản cứng rắn. Mà có quả thực là Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nhượng bộ kinh tế thị trường trên một qui mô lớn không? Những tư sản đỏ mới đều là đảng viên hoặc cảm tình viên của đảng cộng sản; ngay cả với những công ty vốn nước ngoài khu vực tư vẫn còn thua rất xa khu vực công về tầm vóc; đa số những ngành quan trọng vẫn thuộc độc quyền của đảng và nhà nước cộng sản. Như vậy ngay cả về mặt kinh tế chúng ta cũng còn ở rất xa mức độ có thể cho phép khẳng định chế độ này không còn là một chế độ cộng sản.

*


Thành tố quan trọng hơn nhiều của một chế độ cộng sản là triết lý Mác-Lênin. Đây là điều mà một số đông những người cộng sản cũng như chống cộng không ý thức được. Trong bài diễn văn đọc trước quốc hội Việt Nam Cộng Hòa năm 1961 để thông báo tình trạng chiến tranh ông Ngô Đình Diệm đã nói: "Cộng sản không phải là Mac-xít, cũng không phải là xã hội chủ nghĩa, cộng sản chỉ là một tổ chức cướp chính quyền", lời tuyên bố này chứng tỏ ông không ý thức được tầm quan trọng của triết lý Mác-Lênin đối với phong trào cộng sản. Nhiều người chống cộng khác cũng nghĩ như ông và vì thế không nhận ra đặc tính của đảng cộng sản là gì và phải đương đầu với nó như thế nào. Ngược lại chính những người cộng sản cũng không ý thức được tầm quan trọng của triết lý Mác-Lênin đối với chính họ để hiểu tại sao họ đã thành công nhưng sau đó lại phân hoá và sụp đổ.

Triết lý Mác-Lênin là của Marx với sự đóng góp của Engels, Lenin chỉ phụ họa và khai thác. Nó chủ yếu là Duy Vật Biện Chứng và Duy Vật Lịch Sử, những điểm khác không đáng kể.

Biện chứng (dialectic) là phương pháp thảo luận để tìm giải đáp đúng bằng cách liên tục chất vấn một ý kiến được phát biểu, buộc nó phải liên tục điều chỉnh và dần dần cải thiện, cuối cùng trở thành đúng. Ý kiến ban đầu là tiền đề, câu chất vấn là phản đề, ý kiến được điều chỉnh sau khi đã giải quyết; đến lượt nó tổng hợp lại có thể được lấy làm tiền đề, và biện chứng tiếp tục. Phương pháp biện chứng do Socrates đề xướng đã chứng minh giá trị không thể chối cãi được của nó. Trong một thí dụ cụ thể còn được lưu truyền, Socrates đã chỉ bằng những câu hỏi liên tục hướng dẫn một đứa trẻ nô lệ hoàn toàn không biết gì giải được một bài toán.

Hegel đã nâng biện chứng từ một phương pháp thảo luận lên thành một qui luật theo đó bất cứ gì trong vũ trụ cũng là một tổng hợp của một biện chứng đã qua và cũng là tiền đề của một biện chứng đang tới. Một sự kiện đương nhiên làm xuất hiện một sự kiện đối nghịch và từ sự xung đột này một sự kiện mới sẽ hình thành tổng hợp những ưu điểm của cả hai. Hegel không chứng minh qui luật này mà chỉ khẳng định nó như một niềm tin. Xác quyết của ông có tính tôn giáo, nhất là ông lại cho rằng có một nguyên tắc thuần lý tối cao - Hegel gọi là Tuyệt Đối - không khác gì một thượng đế an bài tất cả và Tuyệt Đối này dần dần thể hiện qua các diễn biến. Như thế bất cứ gì hiện hữu hoặc xảy ra đều là một bước tiến đến cái hoàn toàn đúng, hoàn toàn hợp lý. Triết lý của Hegel có thể tóm lược như sau: tất cả những gì có đều hợp lý và tất cả những gì hợp lý đều có hoặc sẽ có.

Hegel không định nghĩa thế nào là phản đề và cũng không nói một tổng hợp phải được xây dựng như thế nào và phải hội đủ những điều kiện nào để có thể được coi là một tổng hợp. Đây là một thiếu sót không thể chấp nhận được trong tư tưởng của Hegel nhưng ông đã không băn khoăn lắm bởi vì thực ra lý thuyết biện chứng chỉ được chế tạo ra để làm một dụng cụ cho triết lý lịch sử của Hegel theo đó lịch sử thế giới diễn biến qua sự xung đột giữa các quốc gia để ngày càng hoàn chỉnh hơn ; một quốc gia thành hình và mạnh lên là một tiền đề, tiền đề này sẽ gặp một phản đề là một quốc gia kình địch, hai bên xung đột và từ cuộc xung đột này sẽ xuất hiện một quốc gia mới tổng hợp những ưu điểm của hai quốc gia: một giai đoạn biện chứng đã hoàn tất và một giai đoạn biện chứng mới bắt đầu.

Marx đã lấy lại toàn bộ triết lý biện chứng của Hegel, dù ông cố gắng hết sức để biện bạch rằng ông không những không bắt chước mà còn phản bác Hegel. Biện chứng của Marx chỉ là biện chứng của Hegel. Điều khác biệt là sử quan của Hegel dựa trên sự quan sát tiến trình thống nhất nước Đức trong khi Marx áp dụng biện chứng cho cuộc cách mạng kỹ nghệ đang diễn ra dưới mắt ông tại Châu Âu.
Một mặt, thay vì lấy một Tuyệt Đối huyền bí làm nguyên lý tối cao điều khiển các diễn biến như Hegel, Marx lấy quan hệ sản xuất; Marx gọi chọn lựa của mình là Duy Vật Biện Chứng. Mặt khác, thay vì sự xung đột giữa các quốc gia, Marx coi đấu tranh giai cấp là động cơ của lịch sử ; Marx gọi triết lý lịch sử của mình là Duy Vật Lịch Sử. Triết lý của Marx chỉ là một ứng dụng khác của triết lý của Hegel.

Tuy vậy Marx đẩy rất xa sự tùy tiện vốn sẵn có trong lý luận của Hegel. Tuy không định nghĩa một cách chính xác thế nào là một tiền đề, một phản đề và một tổng hợp nhưng Hegel còn ý thức được sự mơ hồ của mình và biết dừng lại ở chỗ chỉ sử dụng biện chứng để giải thích lịch sử. Marx đã liều lĩnh hơn, coi vai trò của biện chứng không phải chỉ là để giải thích mà còn là để thay đổi lịch sử, nghĩa là để hành động.

Điều thực sự mới của Marx so với Hegel là về mặt đạo đức. Hegel tuy không bàn tới đạo đức nhưng cũng không phủ nhận các giá trị đạo đức. Khi Hegel nói rằng kết quả của mỗi giai đoạn biện chứng đều là một tình trạng hoàn chỉnh hơn trước, khái niệm "hoàn chỉnh" còn có một ý nghĩa bởi vì các giá trị đạo đức vẫn còn đó để có thể được sử dụng như những tiêu chuẩn đánh giá. Marx trái lại phủ nhận hoàn toàn các giá trị đạo đức như là sản phẩm của giai cấp thống trị ; như vậy khi Marx nói rằng mỗi kết thúc của một giai đoạn đấu tranh giai cấp - từ xã hội cộng sản nguyên thủy đến xã hội cộng sản qua các chế độ nô lệ, quân chủ, phong kiến, tư bản - đều là những tiến bộ, khái niệm "tiến bộ" này hoàn toàn mơ hồ vì không có những tiêu chuẩn để định nghĩa. Đó là một sự tùy tiện tuyệt đối, với hậu quả là kẻ có bạo lực có thể làm tất cả. Mọi đảng cộng sản vì thế đều có bản chất khủng bố, đó là lý do chính tạo ra sức mạnh của chúng.
Cũng nên lưu ý là sự phủ nhận các giá trị đạo đức của Marx đã đạt tới mức độ lạnh lùng dễ sợ. Marx không coi việc giai cấp thống trị bóc lột giai cấp bị trị là một tội ác, trái lại ông coi nó là một lẽ tự nhiên, cũng tự nhiên như việc giai cấp bị trị phải vùng dậy tiêu diệt giai cấp thống trị. Triết lý này đã khiến Lenin định nghĩa đạo đức một cách kinh khủng: "đạo đức là những gì hợp với quyền lợi của cách mạng". Cách mạng theo Lenin là đấu tranh giai cấp và đấu tranh giai cấp là nội chiến. Ông nói: "nội chiến là sự tiếp nối, phát triển và tăng cường độ tự nhiên của đấu tranh giai cấp".
Trong suốt cuộc đời ông Lenin không ngừng nhắc lại rằng nội chiến là tinh thần cốt lõi của phong trào cộng sản. Điều này giải thích tại sao các đệ tử của ông tại Việt Nam đã quyết định một cách rất bình thản cuộc nội chiến "giải phóng miền Nam" bất kể với giá nào, dù cho, như lời ông Hồ Chí Minh, "sông có thể cạn, núi có thể mòn".

Triết lý Mác-Lênin quan trọng ở chỗ nó tạo ra cả một văn hoá và một tâm lý cộng sản. Biện chứng duy vật là một lối lý luận rất sơ đẳng. Nó tạo ra ảo tưởng rằng ngay cả những người vô học cũng có thể lý luận trên tất cả mọi vấn đề, và do đó đảm nhiệm những vai trò lãnh đạo, nếu biết biện chứng duy vật. Từ đó hình thành một tâm lý võ biền coi thường kiến thức. Chính Lenin cũng đã có tâm lý này. Sau Cách Mạng 1917 ông tuyên bố bất cứ ai chỉ cần biết đọc biết viết cũng có thể làm công tác tổ chức và chỉ đạo. Kết quả bi đát đã buộc Lenin phải đổi ý kiến, nhưng tâm lý coi thường sự học và đặt vào địa vị lãnh đạo những người táo bạo nhưng ít học vẫn còn nguyên trong mọi đảng cộng sản. Và Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Từ ngày thành lập tất cả những người có thực quyền trong đảng cộng sản đều chỉ có trình độ văn hoá thấp. Sau giai đoạn được gọi là đổi mới, hai nhân vật Đỗ Mười và Lê Đức Anh là những người lãnh đạo tối cao; những người có quyền lực nhất trong bộ chính trị cũng có cùng một chân dung. Sự thay đổi tuy có nhưng rất hời hợt: người ta cấp phát học vị cho những cấp lãnh đạo. Những người có thực học vẫn không phải là những người có thực quyền.

Sự phủ nhận những giá trị đạo đức, một đặc tính của triết lý Mác-Lênin, đã là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng tham nhũng kinh khủng hiện nay. Người ta tiếp tục chà đạp lên những giá trị đạo đức, cướp đoạt nhà đất một cách trắng trợn, trù dập, sách nhiễu, bỏ tù những người yêu nước lương thiện không phục tùng đảng bằng những tội danh bịa đặt.

Khi sự lương thiện đã không có thì lấy lý do gì để chống tham nhũng? Và tại sao lại học tập "đạo đức Hồ Chí Minh" thay vì "đạo đức" ngắn gọn? Phải hiểu "đạo đức Hồ Chí Minh" không phải là đạo đức phổ cập, nghĩa là đạo đức như mọi người đu có thể hiểu.

Không phải chỉ có quần chúng và những người đối lập mà cả những cấp lãnh đạo cộng sản đều nhìn nhận một sự thực là đảng cộng sản đã biến chất thành một tập thể gian tham, một giai cấp bóc lột. Nhưng có phải vì thế mà ta có thể nghĩ rằng chế độ cộng sản đã chấm dứt và chúng ta đang ở trong giai đoạn hậu cộng sản không? Sự bóc lột nằm ngay trong triết lý Mác-Lênin, theo đó chính quyền đương nhiên là dụng cụ đàn áp của giai cấp thống trị và giai cấp thống trị đương nhiên phải bóc lột vì đó là chức năng khoa học của nó theo Duy Vật Lịch Sử. Khi mục tiêu xây dựng một xã hội cộng sản không giai cấp không còn nữa, như chúng ta sẽ thấy trong một đoạn sau, thì sự biến thái của đảng cộng sản thành một giai cấp thống trị là một tiến hoá tự nhiên và bắt buộc. Về điểm này, chế độ cộng sản không chấm dứt, nó chỉ được thể hiện đúng theo triết lý chính trị của chính nó.

*


Cũng quan trọng không kém, triết lý Mác-Lênin là lý thuyết Mác-Lênin về cách mạng, đảng và nhà nước. Marx và Engels quan niệm nhà nước chỉ đơn giản là dụng cụ đàn áp của giai cấp thống trị vì thế sẽ tàn lụi đi khi xã hội cộng sản không giai cấp đã thành lập xong. Lenin thỉnh thoảng cũng nhắc lại điều này vì nó là một tương lai đầy quyến rũ. (Stalin thực thà hơn không bao giờ nói tới). Tuy nhiên để tiến tới xã hội cộng sản cần một giai đoạn quá độ trong đó nhà nước vẫn được duy trì để tiêu diệt những phần tử phản động và thực hiện cuộc cách mạng vô sản. Nhà nước này được Lenin định nghĩa như sau trong cuốn Cách Mạng Vô Sản và Tên Phản Bội Kautsky: "Chính quyền cách mạng là chính quyền do giai cấp vô sản giành được và giữ lấy, chính quyền này không hề bị ràng buộc bởi bất cứ một luật pháp nào". Với một quan niệm như vậy thì dĩ nhiên luật pháp chỉ là trò chơi và quốc hội chỉ thuần túy là bù nhìn. Đảng cộng sản được định nghĩa như là đội tiền phong của giai cấp vô sản để thực hiện cách mạng vô sản, có quyền lãnh đạo nhà nước một cách toàn bộ và tuyệt đối. Tóm lại, một chế độ đảng trị khủng bố ngoài vòng pháp luật.

Để viên thuốc cực đắng này dễ nuốt hơn người ta nói rằng đó chỉ là một bắt buộc của giai đoạn quá độ để thực hiện cuộc cách mạng vô sản. Nhưng giai đoạn quá độ này sẽ kéo dài bao lâu? Không ai biết. Cho tới đại hội 22 của Đảng Cộng Sản Liên Xô. Trong đại hội này, năm 1961, giai đoạn quá độ được qui định là sẽ hoàn tất tại Liên Xô trong vòng 20 năm nữa, nghĩa là vào năm 1980. Và năm 1980 đã qua đi mà không có gì thay đổi. Từ đó không còn chế độ cộng sản nào nói tới "giai đoạn quá độ" nữa, thuật ngữ này hầu như biến mất. Nhà nước khủng bố không còn là tạm thời mà trở thành thường trực. Thiên đường cộng sản không còn nữa nhưng chế độ hung bạo mà nó đã là lý do ra đời và tồn tại vẫn tiếp tục.

Còn vai trò của đảng cộng sản? Mọi đại hội của mọi đảng cộng sản từ trước đến nay đều giống nhau ở một điểm: tất cả đều hô hào tăng cường hơn nữa vai trò của đảng.

Quan điểm về đảng và nhà nước của Đảng Cộng Sản Việt Nam không hề thay đổi. Vẫn quốc hội bù nhìn, vẫn bầu cử hình thức và bịp bợm, vẫn độc quyền báo chí, vẫn bịt miệng đối lập, vẫn luật pháp tùy tiện. Trên điểm này chế độ cộng sản còn nguyên vẹn. Tệ hơn nữa, chủ trương phân biệt đảng và nhà nước một thời được đưa ra không còn được nhắc lại nữa.

Tóm lại, dù nếu dễ tính đến đâu người ta cũng chỉ có thể nói về mặt kinh tế chế độ cộng sản Việt Nam còn là cộng sản 60%, nhưng về văn hoá chính trị và tổ chức chính quyền nó vẫn là một chế độ cộng sản gần như nguyên vẹn. Giai đoạn hậu cộng sản chưa bắt đầu.

Đến đây, để tạm kết thúc sự thẩm định này, nên lưu ý một điểm quan trọng: quan niệm nhà nước như là một dụng cụ thống trị và đàn áp là của riêng triết lý Mác-Lênin. Các chế độ dân chủ, trái lại, quan niệm chức năng của nhà nước là bảo đảm an ninh và tổ chức sự thực hiện các quyền tự do cá nhân.

*


Do đâu mà một số người ngày càng đông cho rằng chúng ta đã ở giải đoạn hậu công sản? Người ta đã kết luận vội vã, có thể vì so sánh với tình trạng cực kỳ đen tối trước đây, có thể vì lấy mơ ước làm sự thực. Cũng có thể vì lẫn lộn cái tất yếu với cái đã có, cái chắc chắn sẽ tới với cái đã tới. Sự lẫn lộn này có thể có tác dụng động viên mà cũng có thể có tác dụng giải giới. Động viên vì đem lại niềm tin vào sự tất thắng của cuộc vận động dân chủ. Giải giới vì tạo ra sự yên tâm là không cần phải đấu tranh vì thay đổi đang diễn ra. Nhưng lịch sử, kể cả lịch sử của chính chúng ta, đã cho thấy có những chính quyền kéo dài rất lâu dù không còn sức sống và lý do tồn tại. Trong thế giới hiện nay thời gian gần như là tất cả. Dân chủ sẽ đến, nhưng đến trong vòng hai năm hay sau mười năm là hai điều rất khác nhau.

Phải nhìn sự biến chất của đảng và chế độ cộng sản Việt Nam như một tiến hoá rất tự nhiên. Triết lý cộng sản coi xã hội là môi trường xung đột giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị cho đến khi xã hội cộng sản lý tưởng hình thành xong. Ngày nay khi xã hội lý tưởng này đã được nhìn nhận là không có thì sự chuyển hoá của các đảng cộng sản thành giai cấp thống trị là tự nhiên theo đúng bài bản của Duy Vật Lịch Sử, cũng theo bài bản này thì, một cách khách quan và khoa học, giai cấp thống trị đương nhiên phải bóc lột giai cấp bị trị, và sự bóc lột này không thể có giới hạn nào vì triết lý cộng sản không nhìn nhận một giá trị đạo đức nào ngoài những gì có lợi cho kẻ cầm quyền.

Chế độ này chắc chắn sẽ bị đào thải. Không phải chỉ vì đàn áp và bóc lột tự nhiên làm nảy sinh ra chống đối. Có những chế độ bạo ngược kéo dài rất lâu. Nó sẽ sụp đổ nhanh chóng hơn vì một lý do khác. Đó là vì không một đoàn thể nào có thể tồn tại nếu không có một mục tiêu chung hoặc những giá trị đạo đức chung. Đảng cộng sản không có cả hai. Nó sẽ nhanh chóng tr thành một đấu trường hoang dại. Chính những đảng viên cộng sản sẽ xâu xé nhau.

Nhưng đến bao giờ chế độ cộng sản mới chấm dứt? Không ai có thể tiên liệu. Điều chắc chắn là chúng ta không có nhiều thời giờ. Đất nước đã quá tụt hậu, môi trường đã bị tàn phá quá nặng, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc đã xuống rất thấp, ý chí xây dựng và chia sẻ một tương lai chung chỉ còn trong một số rất ít người. Nếu tình trạng này còn kéo dài thêm hai mươi năm nữa thì sau đó có thể sẽ chẳng còn gì để nói.

Một điều chắc chắn khác là dù thay đổi chế độ đến từ áp lực bên ngoài hay từ ngay trong nội bộ đảng cộng sản thì nó cũng chỉ đến nếu quần chúng được động viên để sẵn sàng nhập cuộc. Có lẽ không phải là thừa nếu chúng ta nhắc lại một lần nữa là quần chúng không lãng mạn và chỉ sẵn sàng nhập cuộc nếu tin chắc là sẽ thành công. Và niềm tin này chỉ có được nếu trước mắt họ có một tổ chức dân chủ mạnh.

Nguyễn Gia Kiểng

© Thông Luận 2009


Sunday April 5, 2009 - 11:16am (ICT)



Không có nhận xét nào: