Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2009

các bài đã đăng trên Yahoo 360

Entry for May 05, 2009-Lời bộc bạch của một đảng viên

Tôi thật sự khâm phục bạn, psonkhanh ạ! Tôi tin những điều bạn nói ra cũng chính là những suy tư của 95% đảng viên, trong đó có rất nhiều người là bạn của tôi. Trước đây tôi coi tất cả đảng viên CS đều là một lũ ăn hại đái nát, nhưng nay tôi lại thấy thương cho họ, họ cũng có những sự lựa chọn khó khăn còn hơn của bạn. Bản chất con người vốn tính thiện, không ai muốn làm ác, nhưng do hoàn cảnh dẫn dắt, do bản tính ích kỷ lôi kéo khiến họ trở thành kẻ ác hoặc tiếp tay cho cái ác. Dần dà họ xem cái ác, cái xấu như một thuộc tính chung, là lẽ đương nhiên, mà nếu làm khác đi thì lại trở thành "lập dị" trong con mắt đồng liêu, đồng chí, đồng rận. Họ sẽ bị xa lánh, chê bai, dè bỉu và cuối cùng bị cô lập, bị sa thải... như bạn đang lo sợ.
Trên diễn đàn này, trong thế giới bloggers này, tôi nhận ra những tấm lòng từ tâm, nhân hậu sẵn sàng xóa bỏ hận thù, "lấy chí nhân mà thay cường bạo, đem đại nghĩa để thắng hung tàn". Mọi ngươì đều một lòng một dạ mong mỏi sự thay đổi tốt đẹp hơn cho tổ quốc và tha thiết trông đợi sự "trở về", sự cải tà quy chánh của tất cả mọi đảng viên CS, "buông dao thành Phật, quay lại thấy bến bờ". Chúng ta cùng là anh em một nhà, cùng một giàn bầu bí có nhau, máu chảy ruột mềm, cùng bắt tay nhau xây dựng một nước VN thoát khỏi sự tủi nhục, gông cùm xièng xích đã 79 năm. Lịch sử của chúng ta đã chứng minh rằng dân tộc VN chưa từng khuất phục bất cứ thế lực nào, cả thù trong lẫn giặc ngoài, dù hùng mạnh đến đâu, dù tàn bạo khát máu như thế nào. Những kẻ cố tình xóa bỏ lịch sử, bôi bẩn quá khứ, tự kiêu tự đại; Cố tình tham quyền cố vị, cứ tiếp tục dựa dẫm các thế lực
bên ngoài sẽ không còn cơ hội nào tốt hơn cơ hội có một không hai đang sôi sục diễn ra, để mà trở về trong vòng tay nhân ái của Mẹ VN. Dù cho họ có "lưu vong" như F. Marcos của Phi luật Tân, của Alberto Fujimori của Peru..., đem theo tài sản chiếm đoạt được, thì cũng phải đối diện với tòa án lương tri của nhân loại, bị lịch sử phê phán và phỉ nhổ nhục nhã đời đời kiếp kiếp: "Trăm năm bia dá thì mòn, ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ".
Hãy lắng nghe:


"VIỆT NAM

Việt Nam ! Việt Nam ! nghe từ vào đời

Việt Nam ! hai câu nói trên vành môi

Việt Nam ! nước tôi

Việt Nam ! Việt Nam ! tên gọi là người

Việt Nam ! hai câu nói

Sau cùng khi lìa đời.

Việt Nam đây miền xinh tươi

Việt Nam đem vào sông núi

Tự Do, Công Bình, Bác Ái muôn đời

Việt Nam không đòi xương máu

Việt Nam kêu gọi thương nhau

Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu

Việt Nam trên đường tương lai

Lửa thiêng soi toàn thế giới

Việt Nam ta nguyền tranh đấu cho đời

Tình Yêu đây là khí giới

Tình Thương đem về muôn nơi

Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người

Việt Nam ! Việt Nam !

Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời

Việt Nam ! Việt Nam !

Việt Nam muôn đời !"

Phạm Duy

Nước Việt mến yêu,

Nước Việt yểu điệu rừng vàng

Nước Việt thon thả biển bạc

Nước Việt ngọc ngà trắng trong

Nồng nàn mênh mông

Hai đầu gánh lúa

Chập chùng Trường Sơn trĩu nặng

Hứng gió biển Đông

Dạt dào – “Sóng vỗ miên man

như câu ru êm của Mẹ dịu dàng

Nước biếc mênh mông

như đôi tay ôm của Mẹ trùng dương” (PD)

...

LỜI BỘC BẠCH CỦA MỘT ĐẢNG VIÊN

Lâu nay tôi không viết blog, không comment vì tôi sợ. Tôi nghe được những thằng bạn làm bên an ninh nói rằng đang thực hiện những chỉ thị của cấp trên rất quyết liệt để tìm ra dấu vết tông tích của những blogger “có vấn đề” để có cách xử lý thích đáng. Tôi thực sự sợ, có lẽ là tôi hèn nhát. Nhưng hôm nay tôi muốn viết, tôi buộc phải viết, tôi không giải thích được tâm trạng của mình lúc này, nhưng tôi cảm nhận rõ ràng một sự thôi thúc phải nói ra những gì mình suy nghĩ cho nhiều người đọc. Sự thôi thúc đó đến từ đâu tôi cũng không chắc, nhưng thật tình là tôi vẫn rất run sợ khi post bài này, tôi không phải là người dũng cảm, nhưng tôi thấy mình cần làm điều đó. Và tôi cũng chỉ có nơi này để viết, để nói ra được sự thật, blog là nơi duy nhất ở xã hội này người ta có thể nói thật, còn lại đều là một cuộc sống dối trá với chính mình và mọi người.

Tôi đã gần 50 tuổi, đang làm cho một viện nghiên cứu của Nhà nước, đã được 15 năm tuổi Đảng. Thật lòng là tôi đã nghĩ đến việc ra khỏi Đảng nhưng lại không dám thực hiện, tôi không đủ can đảm và mạnh mẽ để chấp nhận một cách kiếm sống mới hoàn toàn mà tôi không tự tin với nó. Mà bỏ Đảng thì chỉ còn cách bỏ cơ quan. Đã suy nghĩ rất nhiều cách mưu sinh khác nhưng vẫn không thấy cái nào là được. Các con tôi phải còn vài năm nữa mới có thể tự lo được. Lương hai vợ chồng cộng lại mới hơn chục triệu. Riêng tôi mỗi năm được thêm vài công trình nghiên cứu, chia ra cũng được khoảng 30-40 triệu đồng. Cái này chính là bổng lộc mà cấp trên ban phát vì nghiên cứu cho có, xong cho vào tủ, chủ yếu là viết theo ý muốn cấp trên rồi lập hội đồng khen nhau mấy câu, thế là xong. Giàu thì chủ yếu là các sếp lớn vì đề tài nào các sếp cũng có tên để chia tiền dù chẳng làm gì, có khi cũng chẳng nhớ nổi cái tên đề tài. Còn chưa kể những thứ quyền lợi mua sắm khác. Nói chung là nếu lên được trưởng phòng thì không phải lo tiền bạc, người ta cúng cho mình. Do vậy mà trong nội bộ người ta đấu đá giành giật nhau ghê lắm, vào Đảng cũng chỉ hy vọng lên được chức cao hơn. Nói thật là ngày xưa tôi vào Đảng cũng với động cơ như thế, nhưng không nghĩ rằng như thế chỉ mới là cái bắt buộc sơ đẳng, muốn ngoi lên được đòi hỏi phải nhiều thủ thuật lắm, và phải biết luồn cuối thật giỏi, chà đạp người khác mà không bị cắn rứt. Mà cả 2 cái này tôi đều dỡ, có lúc thấy phải làm nhưng làm cũng không đạt yêu cầu. Chuyên viên như tôi (dù là được xếp vào ngạch cao câp) bây giờ toàn phải nói vẹt, nói dối đến mức mất tư cách mà chẳng biết phải làm sao. Giờ mới thấy mình hèn nhưng đã muộn. Tự an ủi trấn an mình “mưu sinh mà, thôi đành vậy…”

Những người Đảng viên như tôi mình bây giờ chiếm đa số tuyệt đối trong Đảng, đến 95%. Hồi tháng 4 năm ngoái, tôi được đọc một bản nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Dư luận Xã hội, đây là tài liệu chính thức nghiên cứu theo yêu cầu của Bộ Chính Trị . Qua đó nói rõ rằng Đảng viên bây giờ đều chán nãn và bi quan, không còn tin vào đường lối chủ nghĩa Cộng Sản và học thuyết Mác Lê-Nin nữa, Đảng viên chỉ hy vọng vào sự đổi mới của Đảng. Nhưng bây giờ Đảng đã không còn đổi mới nữa, đang đi vào ngõ cụt. Hầu hết những Đảng viên như tôi bây giờ đều mong muốn một sự thay đổi, nhưng họ lại sợ thay đổi. Lý do quan trọng nhất là họ sợ bị trả thù như lịch sử đã từng xảy ra, như Đảng đã từng làm, họ nghe thấy sự hung hăng và cực đoan của các Việt Kiều qua các lần biểu tình chống đối người trong nước qua làm họ sợ. Rồi kiểu tuyên truyền của Đảng cũng tăng thêm điều đó, nếu bạn là Đảng viên, đi họp sinh hoạt Đảng thì sẽ nghe thấy những lời lẽ cảnh báo rất nặng nề, nào là các thế lực thù địch, nào là sẽ không đội trời chung với Đảng viên, âm mưu diễn biến hòa mình có thể mất nước v.v..

Nhưng cái làm xói mòn niềm tin ở Đảng nhất là tham nhũng và đặc quyền thì Đảng chẳng có một biện pháp hiệu quả nào ngăn chặn, nếu không muốn nói là Đảng phải duy trì nó để sống và để cai trị quan chức. Cơ quan tôi và nhiều nơi khác suốt ngày bàn tán về việc ông Lê Thanh Hải đã chi ra cả trăm tỷ đồng để hối lộ cho những vị ủy viên Bộ Chính Trị vào TpHCM để xem xét việc cách chức ông ta vì dính đến vụ PCI. Giờ ông ta tuyên bố với đám đàn em kinh tài là vững như bàn thạch vì không những thế, Thủ Tướng còn nhận của ông ta mấy triệu đô la nữa. Giờ là lúc ông ta ra sức vơ vét và tạo điều kiện cho các đàn em kinh tài vơ vét để bù lại những gì đã phải chi ra để chạy cho ông ấy. Những chuyện này giờ đây tồn tại như một sự tất yếu, chẳng có gì đáng ngạc nhiên.

Tôi đang đứng trước một trạng thái chông chênh, giữa những lựa chọn không dễ dàng: theo hiện trạng và thói xấu của xã hội để sống dễ dàng hoặc thay đổi để ko theo nó, hay tham gia vào những sự thay đổi của người khác làm xã hội tốt hơn. Tôi muốn 2 cái sau nhưng nhiều lần đã không vượt qua được chính mình. Hàng này tôi bị buộc phải học và thực hành theo gương và đạo đức HCM nhưng toàn là những gì đạo đức giả và nụy quân tử. Tôi là người luôn kính trọng Chủ Tịch HCM ngay cả khi đã đọc được những mặt trái của Bác. Tôi giữ thái độ đó vì tôi cho rằng Bác là một con người. Nhưng cách mà Đảng đang tuyên truyền về hình ảnh và đạo đức của Bác, bắt mọi người học tấm gương của Bác là cách mà người ta thường làm để ca ngợi những vị giáo của các tôn giáo. Thật đáng buồn là những điều như vậy chẳng những không làm tôn lên hình ảnh của Bác mà ngược lại, vì Bác không có những điều cần thiết của một giáo chủ tôn giáo. Thời buổi bây giờ không còn là những thế kỷ trước, thông tin quá nhiều, nhanh và dễ kiểm chứng thì không thể tạo ra những myth để dẫn dắt lòng tin của mọi người được. Tôn giáo được tạo ra từ các myth vốn là những hiểu biết sai lầm, có thể là dối trá nhưng lại mang ý nghĩa huyền thoại, thần thoại. Người ta đang làm cho hình ảnh Bác ngày càng trở nên méo mó và dối trá.

Gần đây tôi bắt đầu tin dần vào những gì vô hình như là định mệnh, số phận, vận nước, ... Không tìm thấy căn cứ khoa học nào, nhưng có lẽ niềm tin là tâm linh, không phải biện chứng khoa học. Do vậy, tôi cũng hy vọng như nhiều người dân đang hy vọng, hồn thiêng sông núi sẽ phù hộ cho vận mệnh của đất nước. Tôi muốn nói với những người muốn mưu sự lớn và thực sự vì đất nước nhân dân, hãy nhắm vào những gì thiết thực nhất vì cuộc sống của đa số người dân, đừng có giương ngọn cờ dân chủ nhân quyền làm mục đích chính, những điều đó với người dân còn xa vời lắm. Chính quyền hiện này dù làm ra vẻ chống đối và mạnh tay với những người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền; giả bộ như là sợ những điều đó đe dọa sự cầm quyền của họ nhưng thực ra họ rất mong muốn những những người đấu tranh này lao vào những mục tiêu như vậy vì chúng chẳng thể nào thu hút quần chúng trong vài chục năm nữa. Họ ra vẻ cái này là gót chân Achile của Đảng nên phản ứng rất dữ dội, làm cho những người đấu tranh cứ tưởng thật là mình đã nhắm vào đúng tử huyệt của đối thủ và cứ thế hút đầu vào đá. Những gì thiết thực đối với quần chúng thì rất nhiều, nhiều vô kể, không thể nhắm đến hết tất cả một lúc được. Những con người sáng suốt sẽ nhận ra một vài điểm thật quan trọng từ những nhu cầu này, nhấn mạnh nó, giương nó lên làm ngọn cờ để tạo ra động lực cho đa số dân chúng thì mới có thể tạo ra lực lượng và thế lực thay đổi cái hiện nay được. Điều đáng mừng là một vài năm gần đây đã thấy xuất hiện vài người có tầm nhìn như vậy, không lao vào những khẩu hiệu dân chủ nhân quyền mà nhìn được những mấu chốt từ những gì rất thiết thực. Tôi có hân hạnh được trao đổi với những người như vậy trên blog và cảm nhận được sức mạnh tư duy của họ cho dù họ không nói gì về điều đó.

Nếu ai muốn copy bài này để phổ biến thì cứ tự nhiên làm đừng hỏi ý kiến tôi. Mà cũng mong các bạn hãy làm điều đó vì có thể một ngày nào đó, tôi không đủ sự can đảm, không vượt qua nổi sự hèn nhát nên sẽ xóa hẳn cái blog này. Tôi đã từng nghe cánh an ninh nói rằng sẽ dựa vào quan hệ của con rễ Thủ Tướng, là Việt Kiều trong giới tài phiệt, can thiệp với Yahoo để “lôi ra ánh sáng” kẻ nào là Change We Need để trị tội vì đã “vu khống” thanh danh của gia đình “phò mà”. Chuyện ấy cũng vài tháng nay rồi nhưng vẫn thấy Change tiếp tục viết bài, có thể là họ không làm được, và cũng có thể là chưa làm được. Nếu một ngày nào đó mọi người thấy blog này biến mắt hẳn thì xin hãy hiểu và thông cảm cho tôi. Tôi rất biết ơn ai đó copy bài này về blog của mình để những gì tôi viết còn lưu lại được.

Đa số Đảng viên và quan chức hiện nay đều hèn nhát như tôi vậy, những người dũng cảm có tư cách thì rất ít, những người này đều không lên cao được. Những kẻ chức vụ càng cao thì không những hèn mà còn nhát, thượng đội hạ đạp. Bản chất bọn chúng là những kẻ sợ sệt đủ thứ, chúng chỉ hung hăng khi nắm quyền lực trong tay và đối xử thô bạo với kẻ dưới hoặc những người không có chút quyền gì. Tôi đảm bảo rằng, khi có một sự thay đổi bọn người này là những kẻ trốn chạy đầu tiên hoặc quay ngoắc tức thì theo lực lượng mới. Bọn chúng đa số (tôi là thiểu số) đều là những kẻ giàu có, giờ thì lắm tiền nhiều của, sợ chết và sẵn sàng trở thành kẻ phản bội cho người khác sai bảo nếu được đảm bảo rằng không làm gì bọn chúng.

Sự sụp đổ và thay đổi là chắc chắc và không thể tránh khỏi, nhiều người bảo rằng sẽ rất nhanh, nhưng cũng có người bảo rằng sẽ chưa thể trong một hai năm nữa. Tôi thì nghĩ điều đó không tùy thuộc vào Đảng, vào Chính quyền nữa, cái này ngoài khả năng của họ rồi. Nó tuỳ thuộc vào lực lượng thay đổi có thể hành động lúc nào thì lúc đó sẽ có sự thay đổi. Còn thay đổi như thế nào thì lại tuỳ thuộc vào cái lực lượng này có muốn làm điều tốt cho người dân hay không. Thật là khủng khiếp nếu đất nước này tránh vỏ dư gặp vỏ dừa.

Hãy tha thứ cho tôi nêu ai đó vô tình bị xúc phạm từ những điều tôi viết, nhưng tôi vẫn tin những người đó rất ít, đếm trên đầu ngón tay. Tạm biệt mọi người, cũng có thể là vĩnh biệt…. Chúc mọi người vui khỏe và an toàn, chúc Việt Nam thay đổi tốt đẹp.

Tôi đã thực sự ân hận vì đã vào Đảng.

Saturday May 2, 2009 - 06:18am (ICT)



Tuesday May 5, 2009 - 11:17am (ICT)



Entry for April 19, 2009 - Tại sao khôi phục Khổng giáo?

Trong cuốn “Tổ quốc ăn năn”, Nguyễn gia Kiểng đã dành nhiều trang để nói về kẻ sĩ trong thế giới Khổng giáo. Tác giả nhận định Khổng giáo như một sự khuất phục con người vào những ràng buộc khắt khe, coi đó là nguyên nhân gây mất dân chủ, bất công và phi nhân quyền. Bài phân tích dưới đây phản ánh việc nhà nước cho mở một Học viện Khổng tử tại Việt Nam… “với mục tiêu cuối cùng là mở rộng ảnh hưởng của nền văn hoá Trungquốc trên phạm vi toàn cầu”. “Viện Khổng Tử trung tâm được đặt tại thủ đô Bắckinh”. “Học viện Khổng Tử là cơ quan truyền bá văn hoá của Trungquốc ở nước ngoài, do chính phủ Bắckinh tài trợ”. “Khổng Tử là một triết gia nổi tiếng nhất, thời Trunghoa cổ đại. Đạo Khổng bị vùi dập thời Cách Mạng Văn Hoá, nhưng nay đang hồi sinh và được giới lãnh đạo Trungquốc cổ súy như một trong các nền tảng tinh thần của “xã hội hài hòa” thời hiện đại” (BBC).

Một mặt nào đó, tác giả đánh giá kẻ sĩ hiện nay như những kẻ hèn, làm tay sai cho bạo quyền.

MẶT THẬT CỦA KẺ SĨ

NGUYỄN GIA KIỂNG

Nho Giáo không tạo ra kẻ sĩ để làm một con người tự do, dễ chịu trách nhiệm trước xã hội và để lãnh đạo xã hội mà chỉ tạo ra kẻ sĩ để làm dụng cụ cho một guồng máy và làm thủ hạ cho các vua chúa. Trong suốt dòng lịch sử, kẻ sĩ Trung Hoa và Việt nam đều chỉ biết sống với số phận tôi tớ. Sĩ là một nghề, nghề đi học và nghề làm quan. Trước sau là nghề quì. Quì trước mặt thày để học với ước vọng thành đạt để được quì trước các vua chúa. Nếu quì là thái độ của kẻ sĩ thì chờ đợi là triết lý của kẻ sĩ. Thời gian trưởng thành của kẻ si được gọi là thời chưa gặp (lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất), gặp một chủ để thờ.

Kẻ sĩ không khởi xướng ra một sự nghiệp nào mà chỉ chờ đợi để được làm bày tôi cho một minh chủ nên hậu quả tất nhiên là kẻ sĩ phải chấp nhận luật chơi sẵn có của kẻ đã làm nên sự nghiệp, đem trí tuệ của mình minh họa cho ý của chủ. Và luật chơi của chủ rất khắc nghiệt. Các vua chúa muốn dùng họ thì dùng, muốn cách chức đuổi đi, muốn căng nọc ra đánh, muốn thiến họ như thiến heo thiến gà, muốn giết họ thì giết, muốn giết cả nhà họ cũng được, kẻ sĩ cam chịu hết.

Thân phận kẻ sĩ chẳng có gì vinh, đó chỉ là thân phận của một tôi tớ, một dụng cụ thuộc quyền sử dụng và vứt bỏ tuỳ tiện của các vua chúa. Cái bản chất dụng cụ và tôi tớ ấy ngay cả những kẻ sĩ lỗi lạc nhất cũng không trút bỏ được. Điều kinh ngạc là trong hàng chục thế kỷ kẻ sĩ đã có thể chấp nhận một khuôn mẫu đầy đọa và hạ nhục mình như thế, để rồi cuối cùng sự phục tùng vô điều kiện trở thành một bản năng và một giá trị. Khổng Minh tài ba như thế mà gặp thời nhiễu nhương cũng chỉ biết ngồi trong lều cỏ để chờ một minh chúa.

Nguyễn Trãi là một kẻ sĩ siêu việt cả về văn lẫn võ, lại có cả chí khí hơn người, Lê Lợi là một phú nông cục mịch. Tại sao lại Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần? Tấn thảm kịch còn lớn hơn ở chỗ Lê Lợi không có đủ trí tuệ để viết ra câu đó, chính Nguyễn Trãi đã sáng tác ra câu đó.

Cao Bá Quát là một kẻ sĩ ưu việt và ngang ngược, dám nổi loạn chống lại nhà Nguyễn. Nhưng Cao Bá Quát không lãnh dạo cuộc nổi dậy mà chỉ phò Lê Duy Cự. Giả thử cuộc nổi dậy thành công thì cũng chỉ để đưa đến kết quả Lê Duy Cự vi quân, Cao Bá Quát vi thần . Ngay cả khi kẻ sĩ chống lại một ông chủ thì cũng chỉ để hy vọng được phò một ông chủ khác, họ không sinh ra để làm chủ. Cao Bá Quát thất bại, bị chặt đầu và tru di tam tộc. Nguyễn Trãi thành công, để cũng chỉ được cái vinh dự quì gối trước Lê Lợi, rồi cũng bị chặt đầu và tru di tam tộc.

Trong lịch sử Trung Hoa, những kẻ làm nên nghiệp đế vương, dù là Lưu Bang, Hạng Võ, Lý Thế Dân, Triệu Khuông Dẫn, Thành Cát Tư Hãn, Chu Nguyên Chương đều không phải là kẻ sĩ. Họ là hào phú, là các tay anh chị, hay vốn thuộc dòng dõi bá vương. (Tào Tháo là một ngoại lệ, nhưng Tào Tháo bị kẻ sĩ chối bỏ và lên án là gian thần).

Trong lịch sử Việt nam, những kẻ giành được ngôi vua, dù là Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Lê Lợi, Mạc Đăng Dung, Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn ánh đều là quí tộc, võ tướng hay các tay anh chị chứ không phải là kẻ sĩ. (Hồ Quí Ly là một ngoại lệ, nhưng Hồ Quí Ly hành động như vậy vì tự coi mình là người Hoa hơn là người Việt nên coi thường nề nếp Việt nam; chiếm được ngôi vua, Hồ Quí Ly đã lập tức đổi tên nước là Đại Ngu theo tên cố quốc của mình).

Một thực tế thê thảm như vậy chứng tỏ khuôn mẫu Khổng Nho đã tha hóa kẻ sĩ tới mức nào. Một thực tế bi thảm khác là tất cả những tiến bộ về tư tưởng của Trung Hoa đã chỉ có trước khi Khổng Giáo được đưa lên hàng một quốc giáo. Hơn hai ngàn năm ngự trị của khuôn mẫu Khổng Giáo đã làm tê liệt hẳn óc sáng tạo. Các hậu quả vẫn còn thấy được: nhiều nước châu Á, nhờ không chịu ảnh hưởng Khổng Giáo một cách quá nặng nề, ngày nay đã rất phát triển, nhưng người châu Á vẫn hầu như vắng mặt trong các giải Nobel, họ vẫn thua xa người phương Tây về óc sáng tạo trong mọi địa hạt.

Trong xã hội Khổng Nho, kẻ sĩ không hội nhập vào xã hội. Lúc hàn vi kẻ sĩ sống qua ngày, đợi cơ hội làm quan. Lúc được làm quan kẻ sĩ trở thành những tay sai không điều kiện cho các vua chúa để thống trị quần chúng. Kẻ sĩ được vua chúa xếp hàng đầu trên nông, công, thương, nhưng thực ra kẻ sĩ bị loại khỏi xã hội. Một điều rất đáng chú ý là trong xã hội ta ngày xưa kẻ sĩ hoàn toàn vắng mặt trong các chức quyền địa phương xuất phát từ dân gian như chánh tổng và lý trưởng, những chức vụ đã có thể là những bàn đạp để tiến lên quyền lực quốc gia. Kẻ sĩ không có hậu thuẫn quần chúng vì sống ngoài lề xã hội. Kẻ sĩ cũng không có tài sản vì không biết và cũng không muốn kinh doanh buôn bán, không những thế kẻ sĩ còn được giáo dục và nhồi nặn để khinh thường và thù ghét hoạt động kinh doanh, buôn bán. Phi thương bất phú, kẻ sĩ không có độc lập về kinh tế cho nên cũng không có thể có tự chủ về chính trị.

Tại sao lại Nguyễn Trãi vi thần? Bởi vì không muốn vi hành cũng không được. Nguyễn Trãi không có thủ túc và cũng không có tài sản để phất cờ khởi nghĩa. Kẻ sĩ trong khuôn mẫu Khổng Nho là mẫu người lệ thuộc vào vua chúa và cuối cùng chịu ơn vua chúa. Quyền lực quốc gia chỉ truyền tay giữa một bên là các vua chúa và một bên là đám anh hùng áo vải, những người không chịu ơn vua chúa và do đó dám thách thức vua chúa.
Tình trạng vong thân kéo dài từ đời này sang đời khác đã khiến kẻ sĩ mất hẳn lòng tự tin. Tuy bề ngoài có khi kẻ sĩ huênh hoang: Có giang sơn thì sĩ đã có tên, từ Chu Hán vốn sĩ này là quí (Nguyễn Công Trứ), nhưng trong thâm tâm kẻ sĩ không tin ở mình và cũng không tin ở cả giai cấp sĩ của mình; do đó kẻ sĩ không những không dám có ý định dựng nghiệp mà còn không sẵn sàng giúp một kẻ sĩ khác dựng nghiệp. Kẻ sĩ phải làm bầy tôi, nếu từ chối số phận tôi tớ và dám mơ ước làm vua, kẻ sĩ đã vi phạm đạo lý của giai cấp mình và bị lên án là gian thần, thoán nghịch, phản tặc.

Nguyễn Hữu Chỉnh coi thường vua Lê chúa Trịnh bất lực và muốn nắm quyền thì đã sao, mà người ta lên án ông là gian hùng và hả hê khi ông bị bốn ngựa xé xác? Có sử gia nào đủ khách quan để nhận định rằng chính hành động vào Nam liên kết với Tây Sơn của Chỉnh đã mở đầu cho tiến trình thống nhất đất nước?

Luân lý Nho Giáo bắt người có học không được làm chủ mà chỉ được làm tôi cho một ông chủ nào đó, và tệ hơn nữa phải làm tôi suốt đời cho một chủ bởi vì tôi trung không thờ hai chúa. Kẻ sĩ trong quan niệm Nho Giáo là một kẻ nô lệ chứ không phải là một con người tự do. Do bản năng và địa vị xã hội, kẻ sĩ không dám và không thể, và do đó khiếp phục những kẻ dám và có thể.

Bài Bình Ngô Đại Cáo hùng tráng, vì Nguyễn Trãi viết cho Lê Lợi chứ không viết cho mình, vì lúc viết Nguyễn Trải đã tự đặt mình vào địa vị của Lê Lợi, tưởng tượng mình là vua (Trẫm đây, núi Lam Sơn dấy nghĩa..., một mảnh nhung y dựng nên nghiệp lớn...). Tôi nói nhiều về kẻ sĩ như vậy bởi vì cái tâm lý kẻ sĩ vẫn còn hiện diện rất mạnh trong tiềm thức của chúng ta. Di sản nặng nề nhất là triết lý ở ẩn, tránh hiểm nguy và chờ thời. Tâm lý này ngự trị trong đầu óc hầu hết mọi trí thức Việt nam. Nó cũng ngự trị ngay cả trong đầu óc những người có ý chí nhất dám hoạt động chính trị. ở các vị này nó thể hiện qua lối làm chính trị nhân sĩ. Nhưng người trí thức tự cho là mình có một giá trị nào đó - có khi chỉ là do một sự tự đánh giá mình rất chủ quan - thường không chịu tham gia tạo dựng ra một lực lượng chính trị nào và cũng không lên tiếng bênh vực một lập trường nào, ngay cả khi họ thấy là đúng. Họ chỉ muốn là những nhân sĩ đứng ngoài các tổ chức và các cuộc tranh cãi gay go để vừa khỏi tốn công sức vừa khỏi bị cháy. Họ tin rằng một khi họ đã là nhân sĩ thì dù ai nắm được chính quyền cũng vẫn cần họ. Đó là một tính toán mà họ cho là sáng suốt và quả thực là một chọn lựa sáng suốt khi người ta chỉ có tham vọng làm công cụ. Chính cái thái độ nhân sĩ này, hậu thân của tâm lý kẻ sĩ ngày xưa đã khiến các tổ chức đối lập dân chủ hiện nay không được hưởng ứng và không mạnh lên được trong một giai đoạn đầy thử thách như giai đoạn chúng ta đang sống.

Một di sản khác là sự thiếu quyết tâm. Trí thức Việt nam có nhiều người không thiếu ý kiến nhưng cái quán tính không dám và không thể thừa hưởng từ tâm lý kẻ sĩ do hàng ngàn năm uốn nắn này vẫn còn quá manh khiến họ do dự bất quyết, sẵn sàng thỏa hiệp và nhượng bộ trước những giải pháp thô bạo trái ngược với nguyện ước của mình, rồi sau cùng đánh mất chính mình. Nhiều trí thức còn thực sự ngưỡng mộ những tay anh chị bởi vì họ ngưỡng mộ cái liều, cái bạo mà họ không có được. Họ bị hớp hồn trước những người có bản năng mạnh và dám làm, bởi vì đó là một phần của chính họ mà họ đã mất đi và vẫn tiếc.

Mẫu người kẻ sĩ không phải chỉ còn tồn tại mà còn đang có cơ được hồi sinh. Các chế độ độc tài tại châu Á, trong đó có Trung Quốc và Việt nam, đang dụng tâm thiết lập một thứ Khổng Giáo Mới làm chỗ dựa cho các chế độ độc tài ngày nay, như Khổng Giáo Cũ đã từng làm nền tảng cho các chế độ quân chủ chuyên chế ngày xưa. Một âm mưu tha hóa trí thức mới đang xuất hiện. Và lần này kẻ sĩ có một cái tên gọi mới: chuyên viên. Ngay trong lúc này đang có nhiều trí thức Việt nam chủ trương hãy thôi làm chính trị, tạm chấp nhận chế độ này, hợp tác với nó trên các mặt chuyên môn. Họ hy vọng sẽ dần dần dân chủ hóa được chế độ. Nhưng nếu kẻ sĩ ngày trước trong hơn hai ngàn năm không thay đổi được chế độ quân chủ thì trí thức chuyên viên ngày nay dù có bản lĩnh hơn và có bối cảnh thuận lợi hơn cũng không thể thay đổi được chế độ độc tài này trong một hai thế hệ, nếu họ chỉ là những chuyên viên.

Hãy coi chừng lịch sử lập lại. Tại sao chủ nghĩa cộng sản bị phủ nhận tại Tây Âu, nơi đã khai sinh ra nó, mà lại thành công tại Trung Hoa, Việt nam và Triều Tiên? Tại sao, ngoại trừ hòn đảo Cuba nhỏ bé, chế độ cộng sản chỉ tồn tại được trên ba nước này? Lý do chính là vì chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện hồi đầu thế kỷ này như là một thứ Khổng Giáo Mới.

Có gì khác giữa Khổng Giáo và chủ nghĩa Mác Lênin? Cũng đặt nền tảng trên bạo lực, cũng độc tài toàn trị, cũng giáo điều, cũng độc tôn, cũng nhân trị nghĩa là cai trị một cách tùy tiện bất chấp luật pháp, cũng bưng bít, cũng cấm đoán tư tưởng, cũng bài xích các tôn giáo, cũng triệt hạ kinh doanh, cùng đề cao sự nghèo khó để cai trị bằng sự nghèo khổ. Cả hai đều là những hệ thống nửa tôn giáo, nửa chính trị. Cả hai đều đưa đến bế tắc và cả hai đều có cùng một biện hộ sau khi đã thất bại: không phải lý thuyết sai mà là áp dụng sai.

Chỉ cần lấy Marx và Anghen đặt vào địa vị của Khổng Tử và Mạnh Tử, lấy các cuốn Tư Bản Luận, Lênin Toàn Tập thay cho Tứ Thư và Ngũ Kinh, lấy Trung ương Đảng thay cho Triều Đình, đem các đảng viên thay cho đám quân tử là đâu lại vào đó. Khổng Giáo đã dọn đường cho các chế độ cộng sản. Chỉ có điểm mới là chủ nghĩa cộng sản tâng bốc quần chúng vô sản mà Khổng Giáo mạt sát, dù chỉ là một sự tâng bốc giả dối. Nếu trước đây Khổng Giáo đã dọn đường cho các chế độ cộng sản thì ngày nay những tồn đọng của tư tưởng Khổng Giáo đang giúp các chế độ này kéo dài.

NGUYỄN GIA KIỂNG

PHẢN HỒI

TRẦN NAM CHẤN

Bài viết của Nguyễn Gia Kiểng thật thấm thía. Nó khơi dậy những nỗi đau. Càng đọc, càng ngẫm càng thấy đau.

Thật chính xác khi ông nói:

“Thân phận kẻ sĩ chẳng có gì vinh, đó chỉ là thân phận của một tôi tớ, một dụng cụ thuộc quyền sử dụng và vứt bỏ tuỳ tiện của các vua chúa. Cái bản chất dụng cụ và tôi tớ ấy ngay cả những kẻ sĩ lỗi lạc nhất cũng không trút bỏ được.”

“Các chế độ độc tài tại châu Á, trong đó có Trung Quốc và Việt nam, đang dụng tâm thiết lập một thứ Khổng Giáo Mới làm chỗ dựa cho các chế độ độc tài ngày nay, như Khổng Giáo Cũ đã từng làm nền tảng cho các chế độ quân chủ chuyên chế ngày xưa.”

Tuy vậy, tôi thấy cần bổ sung thêm một ý.

Đó là: NGÀY NAY KẺ SĨ CÒN ĐÁNG BUỒN HƠN CẢ NGÀY XƯA. Bởi vì ngày xưa những người đi học nói chung là được chọn lọc kỹ hơn ngày nay rất nhiều. Còn ngày nay trường lớp mở ra vô tội vạ (mỗi tháng thêm vài ba trường đại học/cao đẳng) với đủ các hình thức đào tạo, hay chính xác hơn, là các hình thức cấp bằng, nên bất cứ ai miễn có đủ tiền nộp ‘học phí’ đều trở thành kỹ sư, bác sĩ, cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, thậm chí giáo sư.

Đội ngũ ‘trí thức’ ngày nay đại đa số là dốt về chuyên môn, không có bản lĩnh, không có lòng tự trọng và có mục đích sống tầm thường. Cái đại đa số dốt nát ấy làm lẫn lộn trắng-đen, phải-trái, xấu-đẹp. Bằng số đông, lại được sự ủng hộ từ phía những kẻ cầm quyền, họ hoàn toàn lấn át một thiểu số những trí thức chân chính.

Có vẻ như khác xưa: ngày nay kẻ sĩ đang tham gia vào công cuộc điều hành xã hội. Trong hàng ngũ quan chức các cấp chẳng phải đã có rất nhiều cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư đó sao? Vậy thì còn gì phải than thở cho thân phận kẻ sĩ nữa?

Nhưng, than ôi, đó chỉ là những kẻ vốn đã làm quan rồi tự trang bị bằng cấp cho mình, hoặc những ‘kẻ sĩ’ tầm thường chuyên nghề nịnh nọt để tìm kiếm chức tước. Còn những người thực sự muốn sống bằng kiến thức chuyên môn và thực tâm muốn có một cuộc sống tinh thần tốt đẹp thì vẫn đang đứng bên lề xã hội.


Sunday April 19, 2009 - 05:53am (ICT)



Entry for April 14, 2009-
Thằng chột làm vua nước mù hay thằng mù làm vua nước chột?


Nước Việt e ấp thẹn thùng,

Nước Việt nhẹ dạ cả tin …

…Vào những tên mù thật hay giả mù. Trong cái C.ống h.ộp x.ình h.ôi c.ần n.ạo v.ét n.gay này toàn những kẻ sáng, sáng mắt sáng lòng, sáng tâm linh lịch sử, nhưng lại để cho mấy thằng mù dẫn dắt, soi đường chỉ lối nơi u minh mông địa…

Ám thị

Phạm thị Hoài –Tiền vệ

Buổi đầu tôi mặc hai lượt quần, ba lớp áo. Chồng tôi bảo, thày tẩm quất nào phải ông thày võ chọc ngón tay thủng tường mà mình che chắn khiếp đảm như thế. Thày lại đeo kính xẩm, không nói trước có khi lẫn lộn đàn ông với đàn bà. Nhưng tôi nghĩ, áo xống đâu chỉ để che thân mình và che mắt ai, trong quan tài người ta cũng mặc thật chu đáo. Lần đầu để tay người lạ chạm vào, có giữ ý có lành. Đàn ông không phải ai cũng tân tiến như chồng tôi, mà những người mù tôi biết đều có vẻ không theo thời, như thể họ sống riêng ra một cõi xa xôi nào đó. Cõi ấy mặt trời không mọc và lặn. Tôi e không cẩn thận dễ thất thố với người tàn tật. Sờ thấy cái nịt ngực với đủ quần áo trong ngoài dày dặn, chắc thày sẽ hiểu rằng tôi coi thày như người lành. Đôi bên sẽ tin cậy nhau hơn, dẫu sao không riêng tôi lần đầu mà thày cũng chưa từng tẩm quất đàn bà. Chiếu tẩm quất là chỗ đàn bà không vào. Chồng tôi vất vả lắm mới mời được thày, than rằng thời thế gì mà nhờ ai đánh vợ còn dễ hơn thuê người đấm lưng vợ. Đến chỗ nào người ta cũng tưởng anh sinh chuyện, nên đuổi khéo, bảo chưa mở hàng, sợ xui. Thày quất này nghe anh ngỏ lời xong, cho một hồi: "Ông mua cho bà nhà vài cái máy chẳng hơn ư? Máy rung, máy xoắn, máy giác, máy đập, máy ủ chân, máy chườm bụng, máy cù nách, máy chiếu tia hồng ngoại, máy giời thời này cũng có. Mấy cái que gãi lưng với cái cái cục vừa đấm vừa xoa bằng nhựa Trung Quốc, ông cứ ới hàng bán rong một tiếng là có cả tá, dùng cả đời không mòn. Chúng tôi đây chỉ có hai bàn tay suông, đáng gì mà vẽ chuyện."

Chồng tôi lấy làm thú vị cái giọng chao chát ấy, khẩn khoản nài, thày chua thêm một đoạn nữa: "Ông chê đồ giả thì dẫn bà nhà đi khách sạn. Trong ấy toàn người thật việc thật, vui lắm. Vào mát xoa mát da, ra tắm hơi ấm thịt, lại lịch sự nhẹ nhàng. Chúng tôi đây có mỗi món vặn cổ bẻ lưng, khí man rợ, không hợp với đàn bà."

Chồng tôi nghe vậy càng thích. Anh vốn có duyên với những kẻ khác đời, nghe tiếng ai ngông là lặn lội đến mời về thù tạc bằng được. Một dạo nhà tôi tấp nập khách nghệ sĩ, sau chồng tôi kết luận là họ chỉ ra vẻ lập dị, chứ muốn được đời tán thưởng thì sao đành khác đời. Vả lại nhiều vị làm nghệ sĩ suông thì xù xì, đặt vào đâu cũng không vừa, nhưng tác phẩm cứ trình ra là tròn khuôn, thần thái gồ ghề biến đi đâu hết cả, anh thật không biết nên tiếp tục xử sự với các vị ấy như thế nào. Năm ngoái anh tiếc mãi một vị không nghệ sĩ, nghe nói ông viên chức cũ thời Pháp ấy theo cái chủ nghĩa tự đặt là chủ nghĩa cảm ơn xin lỗi, tuyên ngôn rằng mình là người cuối cùng biết nói hai từ sắp tuyệt chủng ấy, nên lưỡi còn ngọ nguậy thì không nói gì hơn hai từ này. Chồng tôi tới quá muộn, lưỡi ông ấy đã cứng, may là còn tìm được xác ở bãi rác ngoại ô, đành đem về nghĩa trang Văn Điển chôn như mọi người. Cả năm nay anh than buồn cho thiên hạ, buồn cho mình. Đám trẻ có liều mà không ngông. Đám già thì xa đời chứ chẳng khác đời. Thày quất này tuổi còn non mà nói giọng thâm thuý chững chạc, rõ ra kẻ không xu thời. Chồng tôi trổ hết duyên, rủ được thày đi uống mấy chén rượu tăm nơi một chủ rượu cũng có tiếng khinh bạc, không bao giờ thèm tiếp khách vãng lai. Cuối cùng thày bảo nể lắm nên nhận lời, nhưng xưa nay chưa từng tẩm quất đàn bà, phục vụ có gì sai sót xin ông Giáo rộng lượng.

Ban đầu chồng tôi cho vợ nằm trên sập, ý là để thày đứng cạnh cho tiện tầm tay. Nhưng thày bảo: "Chúng tôi chỉ quen ngồi chiếu. Nghe nói ở viện y học dân tộc có khoa xoa bóp, thày thuốc mặc bờ lu trắng thì đứng, bệnh nhân nằm. Chúng tôi đây là tẩm quất dân dã, xin cứ xuề xoà cho đúng kiểu." Chồng tôi vội trải chiếu, đáp rằng thày nói hợp ý anh lắm, đây là chỗ thân mật, không phải nơi công cộng, là cái thú thoải mái chứ đâu phải cái bắt buộc chỉnh chu gì, xin thày cứ tự nhiên cho. Thày ngồi vào chiếu. Tôi xuống nằm. Chồng tôi bảo: "Phía đầu ở bên trái, phía chân bên phải thày đấy ạ." Anh cũng đã dọn nhà thật kỹ. Nhà tôi thường ngổn ngang, bàn ghế kê rất trắc trở, quà tặng lặt vặt của khách văn nghệ một thuở và đồ lạ mắt do chồng tôi sưu tầm bày đầy, cây cảnh và sách vở không chừa chỗ nào. Ông thày này không khua gậy, không có chó dắt, không có trẻ đưa, như bắt xung quanh tránh mình chứ mình không tránh.

Tôi nằm nghiêm. Sấp, ngửa, nghiêng, nằm thế nào cũng thấy gò bó, như cả đời chưa nằm bao giờ. Nằm sấp thì mông thừa, đùi càng khép mông càng nổi gò. Mà mở đùi e hớ. Nằm nghiêng càng lộ. Nằm ngửa thì tênh hênh. Thày ấn tay vào là tôi gồng lên. Cả người tôi là một khối cảnh giác sưng sỉa. Thày bảo: "Bà nhà không được thoải mái lắm." Chồng tôi dồn hỏi: "Sao lại không thoải mái? Thoải mái là thế nào?" Thày đáp: "Hồi nhỏ bị người lớn nọc ra đánh, chúng tôi cũng nằm như thế này." Chồng tôi cười lớn. Anh bình luận hồi lâu về cái lẽ thấm thía của tình thương trong roi vọt, rồi bảo: "Vì thế tôi mê món tẩm quất dân tộc. Nó là món đấm món véo, món thượng cẳng chân hạ cẳng tay, vào đến đâu nhớ đến đấy, không phải cái thứ mát-xa mát-xôi thời bây giờ. Tôi chúa ghét những thứ thoang thoảng cảnh vẻ, quý tộc rởm, lãng mạn rởm, văn minh rởm! Xin thày cứ tẩn mạnh cho."

Chồng mê gì tôi thích nấy, ghét gì tôi chê cùng, từ ngày đầu làm vợ đã thế thì cứ tiếp tục thế đến ngày chót. Tôi cho làm vợ là thân phải trao, phận phải gửi cả, đâu giữ chỗ nào cho riêng ý mình. Chồng tôi lại cho thế là thụ động, đem cái kết quả của nghĩa vụ làm điểm xuất phát. Vậy sửa rằng, sở dĩ trao thân gửi phận vì chung một lòng. Tôi không thấy đi từ tình lòng hay từ nghĩa phận cuối cùng có gì khác. Nhưng sửa cũng thế mà chồng được vừa ý. Thì sửa là hơn.

Thày đáp: "Chúng tôi cũng thích tẩn mạnh. Khách được đấm cho ra tấm ra món đỡ tiếc tiền. Nhưng hôm nay xin làm biếu không hai bàn tay, hai bàn chân, là thứ râu ria không đáng kể gì. Ông Giáo thấy vô hại thì lần sau chúng tôi xin ra đòn hẳn." Chồng tôi đồng ý, nhưng giao hẹn: "Thày giữ kẽ buổi đầu thôi nhé! Từ lần sau ta phải bỏ hết các thủ tục khách sáo. Tẩm quất mà rào trước đón sau thì còn ra cái gì!"

Mỗi bàn tay tôi không đầy hai chục phân vuông thày làm hết mười lăm phút. Tôi để ý nhất động tác vê các ngón, tỉ mỉ từng li. Sau trọn nửa tiếng đồng hồ chồng tôi đùa: "Thày quen tay nhà tôi hơn tôi rồi đấy". Thày đáp: "Ông Giáo nói đúng. Người ta thuộc mặt nhau là thường, thuộc giọng nhau cũng còn là thường, thuộc đến mùi nhau đã hiếm hơn, thuộc tiếng chân nhau là hiếm lắm. Nhưng hiếm nhất là thuộc tay nhau. Xưa không có lệ bắt tay cầm tay, không ai biết tay ai đã đành. Nay đưa tay xoành xoạch cũng chẳng hơn gì. Ngay những người suốt ngày xoa tay xin xỏ, những người suốt đời chụm tay cầu cúng, tay này cũng còn không biết tay kia thế nào..." Chồng tôi ngắt lời: "Thày nói thế chắc phải biết tay thiên hạ lắm!" Thày đáp: "Không dám! Chúng tôi chỉ biết lưng thiên hạ thôi. Đàn ông đi tẩm quất quan trọng mỗi cái lưng, ai hơi đâu vẽ chuyện nắn tay. Mỗi tay khách bẻ cho kêu mười cái, có thành tích răng rắc là các vị hài lòng rồi. Kêu mười cái hết mười giây đồng hồ. Lắm vị tay chỉ kêu cùng lắm được chín cái, là chín giây, cũng bằng một cái bắt tay khách sáo thôi, ông Giáo ạ."

Chồng tôi bảo, anh cũng thích nghe cái thành tích răng rắc ấy, xem nó thế nào. Thày bèn đặt ngửa một bàn tay tôi trong lòng tay thày, khum lại. Ngón cái tay thày dạo một đường như bấm phím nhạc trên mỗi mấu giữa hai đốt đầu bốn ngón tay tôi. Bốn tiếng gọn gàng vang lên. Ngón cái tay thày dịch nhanh lên lưng đốt cuối bốn ngón tay tôi. Bốn tiếng nữa, trầm hơn tiếng trước. Bây giờ ngón cái và ngón trỏ tay thày gập gọn ngón cái tay tôi, thêm một tiếng trầm. Tiếng thứ mười vang lên ở đâu đó sâu dưới rễ ngón cái. Tay bên kia cũng kêu đủ mười nốt. Chồng tôi khen. Thày bảo: "Chẳng qua là cái mẹo vặt, ai khéo là làm được, ông Giáo nên tập cho biết cái ấy không cao siêu gì."

Đến lượt chân, chồng tôi có vẻ xúc động. Lúc thày miết dài trên mu, lách qua từng kẽ ngón, lăn chiếc mắt cá, rồi đặt trọn bàn chân tôi cũng không đầy hai mươi phân vuông lên tay này, tay kia trùm xuống, như ủ một con chim thật nhỏ xinh yếu ớt, anh bỗng nhìn vợ. Tôi nhoẻn cười. Mỗi khi không chắc chồng nghĩ gì tôi đều nhoẻn cười. Tay thày vòng ấm cổ chân tôi. Tay thày băm, gõ, đập miên man lòng bàn chân tôi. Tay thày cù phơn phớt. Tôi nhột, tôi động từ gót động lên. Chồng tôi thốt ra: "Thày bảo tẩm quất là món man rợ phải không?"

"Vâng." Thày rút mạnh, cổ chân tôi kêu khục một tiếng. "Hay ông Giáo gọi nó là món bình dân cho tiện." Lại rút mạnh. Cổ chân bên kia lại kêu khục. Hai bàn chân tôi không lìa khỏi cẳng. Chúng chỉ nhẹ như hai chiếc lá rủ mềm khoan khoái và lười biếng, chúng chỉ muốn mãi mãi nằm đó, để được ủ nữa, cù nữa, chiều chuộng nữa. Chúng hư mất rồi.

"Vâng, chúng tôi không cốt nói cho ra vẻ đâu. Chẳng qua là những món lịch sự hiện đại tràn lan quá, dễ tìm, dễ dùng quá, thay đổi nhanh quá, khiến người sâu xa như ông Giáo phải bất mãn, quay sang đề cao những thứ mộc mạc cổ truyền. Chúng tôi phải nói trước để ông Giáo khỏi thất vọng. Món tẩm quất này nếu không cổ lỗ rị mọ thì người tối tăm như chúng tôi sao làm được. Có cơ sở gì đâu. Cứ lỗ mỗ học mót trong thiên hạ, cái hay cái dở như nhau cả. Chúng tôi chả biết cái gì đáng vứt, cái gì có giá trị thật, cứ à uôm dùng tuốt cho được việc. Người ngoài thấy u u minh minh lại xếp luôn vào hạng huyền diệu. Thật là vẽ chân cho rắn. Châm cứu bấm huyệt may ra có chút văn minh tinh tế, chứ xoa xoa đập đập thì bọn đười ươi cũng không thua gì. Chẳng qua là cái nghề kiếm sống. Chúng tôi vốn mê nghề khác, nhưng trời đã bắt như thế này thì đành chịu trời..."

Chồng tôi không biết nên đáp thế nào. Khách ngông đến nhà tôi có khi ăn nói dở khôn dở dại, nhưng ông thày này lắt léo, cả buổi nói toàn giọng ngấm ngầm giễu cợt. Chẳng hiểu muốn thân hay muốn sơ? Chẳng hiểu trọng hay khinh người? Thật thà hay vòng vo thử thách? Riêng ngón nghề thì rõ ràng, nên chồng tôi nhất định đòi thuê xích lô đưa thày về, để hôm sau lại rước bằng được. Anh không nói ra hẳn, nhưng tôi biết ông thày khó hiểu này sẽ còn làm khách quý trong nhà tôi lâu dài.

Buổi thứ hai chồng tôi hồi hộp còn hơn vợ. Thày chưa đến, anh đã giục tôi ra nằm. Tôi nằm sấp, nhắm mắt, nghĩ linh tinh. Thày tẩm quất không bao giờ biết mặt tôi. Thày tẩm quất có đôi tay lúc ấm lúc mát rượi. Thày tẩm quất có giọng mỉa đời. Không khéo hôm trước mỉa ngầm chồng tôi. Khinh tôi cũng nên. Nhưng sao mà vuốt chân tôi thành thật thế. Mấy cô thợ sửa móng chiều chân khách lắm cũng không bằng. Từ hôm qua tôi biết mình có hai bàn chân, để xúc động, để vòi, để hư, để nghĩ. Ừ, hai bàn chân làm lụng vất vả nhất cơ thể, mỗi ngày tôi chải tóc mấy bận mà chẳng buồn chải chân. Mỗi đêm chồng tôi tìm ngực vợ bao lần mà chân để suông. Đêm qua anh bỗng hôn chân tôi ướt lịm, điên khùng hơn hôn môi, khiến vợ chồng lại lạ nhau như mới cưới. Tôi cảm động phát khóc. Trên đời chắc không nhiều người vợ được chồng mút chân. Hôm nay anh bảo tôi mặc một bộ đồ lụa. Thế là đủ kín đáo, đàn ông đi tẩm quất chỉ đánh cái quần đùi. Anh đâu thuê thày về tận nhà xoa bóp mấy lớp mo nang em khư khư khoác vào người. Là da thịt em, anh yêu, anh chiều. Là em, anh thương, anh không dắt em vào những cái sướng ở đời thì tự em chả bao giờ dám sướng. Vả lại, giữ gìn quá hoá ra gán cho người ta có ý trộm. Vợ anh đâu như mấy cô thiếu nữ, đi thì dính hai đầu gối vào nhau, ngồi thì đùi quấn như thắt nút. Khép quá khác nào thách người ta xông vào.

Bộ đồ lụa khiến tôi mềm mại, hay lúc tay thày đặt xuống tôi bỗng thấy thân thuộc? Tôi cũng quen tay thày rồi sao? Đầu tiên là những vòng xoa nhè nhẹ, dịch dần từ hai bả vai, theo lưng, trườn sang hai bên lườn, xuống hai bờ mông. Tôi lại nhoẻn cười với chồng. Thày bảo: "Lưng tạm được, vai với mông mất nhiều công đấy ạ." Chồng tôi không hiểu. Thày giải thích: "Hai buổi là chúng tôi làm cái lưng này nhuyễn, không có vấn đề gì. Vai với cả vùng cổ sượng lắm, phải cả tuần mới ổn. Nhưng hông có vẻ hơi lệch. Chúng tôi chưa dám chắc. Nếu lệch thật thì chúng tôi xin chịu. Ông Giáo phải tìm thày thuốc, chứ thày quất không ăn thua." Chồng tôi khẩn khoản xin thày xem kỹ lại hông vợ. Thày một mực bảo khả năng mình hạn chế. Trong khi hai bên nói qua nói lại, chồng tôi đặt tay lên mông tôi bên này mà nắn, thày nắn bên kia, cái giữ kẽ của hôm trước quả là đã bỏ đi như giao hẹn. Cuối cùng chồng tôi đành chấp nhận ý thày, anh còn khen thày thật khiêm tốn, không như mấy ông lang trọc, có mỗi lá cao đen đen bẩn bẩn mà hô rằng chữa bách bệnh. Anh cũng tự khen mình nhìn người không lầm.

Cả buổi thày vừa làm vừa thong thả giới thiệu cho chồng tôi từng ngón nghề. Cái này là đấm, nông thôi, lỏng thôi, như vừa thả xuống đã nhấc lên, lực từ cổ tay rơi ra, không từ cánh tay dồn lại. Đấm phải vui tai mới là đấm hay. Đã bảo tẩm quất là món dân dã ồn ào. Dân mình thích đông, thích ồn. Phạt nhau đày ra chỗ tĩnh mịch vắng vẻ khiếp hơn ra pháp trường. Pháp trường còn có súng nổ, người la hét. Cái này là vỗ, tay khum như mui rùa, như đùm không khí mà đập xuống. Cũng phải nghe bồm bộp mới sướng. Cái này là chặt, xát, miết, véo, day, phát, bóp, ấn, lăn, vê, cọ, kẹp..., nghe rặt tra tấn, đã bảo tẩm quất không phải nghệ thuật vuốt ve. Cái này là bắt chuột. Dọc sống lưng, chỗ này, chỗ này, mỗi bên có một con chuột lẩn kỹ lắm, lùa cho nó nổi lên mà chạy mới là giỏi. Cái này là kiến bò. Thoang thoảng đầu ngón tay, nhưng khách phải sởn gai ốc mới là đạt. Nhưng lắm vị khách lưng to như cái phản, kiến bò không ăn thua, phải vục ngập móng mà cào như dế đào may ra họ mới có cảm giác. Hạng người ấy càng bị giẫm đạp nhừ tử càng biết ơn. Bây giờ đến cò lội, ngón tay làm chân cò chớ lội rầm rập. Gọi là cò mổ cũng được, mổ nhát một, sao cho thong thả, nhẩn nha. Rào rào như đánh máy thuê là khách tưởng đang vào cao điểm. Thế là hỏng. Cao điểm phải là đoạn đau đớn nhất, đau xong lịm đi vài giây là đến cực sướng, sướng dã man. Bây giờ đến đoạn rắn vắt ngang. Đã bảo tẩm quất là món rị mọ. Toàn côn trùng, rắn rết, chuột bọ, tuy mộc mạc thật thà hơn long ly quy phượng, nhưng mới nghe chắc cũng chối tai. Rắn vắt chẳng qua là cuốn da. Người ta có năm chỗ để cuốn, hai khuỷu tay, hai đầu gối, với lưng. Cuốn đẹp thì da chỗ này đuổi da chỗ kia như sóng. Đây, bây giờ mới đến cao điểm, gọi đơn giản là nhổ. Nhổ từ chỗ này xuống, kết thúc ở mút xương cùng.

Thày chuyển tư thế nhanh đến mức tôi không kịp hoảng hốt. Bây giờ thày lom khom trên tôi, tay lần theo sống lưng từ ngang eo xuống, rút mạnh. Sống lưng tôi lần lượt kêu đánh khục, mỗi tiếng kêu lại dịch một đốt xuống dưới. Tôi run thầm. Một tiếng nữa, một tiếng nữa, một tiếng nữa, là đến cái nốt ruồi ấy. Ăn ở với nhau mấy tháng trời chồng tôi mới biết đến nó, cái nốt ruồi thật khuất, chỗ xương cùng, cái nốt ruồi của riêng hai vợ chồng, thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mỗi lần âu yếm cái chút xíu thiêng liêng ấy chồng tôi lại bảo, người xưa nguyện ước với nhau vin vào núi, sông, có khi lấy cả trời đất ra mà làm chứng, đều là những thứ của chung thiên hạ. Của chung dùng mãi cũng mòn, mình bây giờ thề bồi chỉ trông vào cái nốt ruồi bí mật này thôi. Xưa là núi Thái Sơn hùng vĩ, nay là một hạt đậu nhỏ nhoi ẩn giữa hai bờ mông vợ.

Nhưng bây giờ chồng tôi như bị thôi miên, bây giờ thày có cưỡi lên vợ chắc anh cũng bằng lòng, cái này chắc gọi là cưỡi trâu nhổ mạ. Thày cưỡi lên tôi thật. Thỉnh thoảng tôi vẫn thấy thợ tẩm quất ngồi ngay trên mông khách ở vỉa hè mà hành nghề như vậy. Thì ra theo bài bản chứ không tự tiện. Chồng tôi hay giễu thói đài các rởm của thiên hạ, nhưng anh đâu phải người bỗ bã, chắc anh không để tôi phải qua đủ bài bản, gác đùi lên vai thày như khách ở vỉa hè.

Nhưng hai người đàn ông chỉ chăm chú vào công việc, người này vẫn giảng giải chu đáo, người kia vẫn nghe như nuốt từng lời. Cả năm rồi chồng tôi không có ai để chịu nghe như vậy. Tôi lịm đi khi cái hạt đậu làm tin ấy lọt giữa bốn ngón tay thày và tiếng khục cuối cùng vang lên. Lúc giữa đêm choàng tỉnh thấy chồng trên lưng, dịu dàng, đắm đuối, điên khùng, chú kiến khổng lồ, chàng cò, gã rắn. Như thế là tôi lo không đâu cho một chút nốt ruồi.

Hôm tôi bỏ áo ngoài, chỉ giữ một cái yếm, chồng tôi nảy ra ý dùng nến thay đèn điện. Để vợ thấy kín đáo, chứ với ông thày tội nghiệp thì đèn giời cũng bằng thừa. Quả như vậy. Thày điềm nhiên cầm lưng tôi để trần, chăm sóc cũng tỉ mỉ như mọi lần, bóp vai nắn gáy tận tình. Phần tôi khoan khoái thấm thía hơn và phần chồng tôi ngắm không chán ánh nến loang lãng mạn trên những đường cong mịn màng của vợ. Nhiều hôm sau chồng tôi lại bảo bỏ yếm, vì cái dây vòng trên cổ và cái nút thắt ngang lưng hơi vướng, tay thày đang thoải mái bỗng vấp những chỗ ấy, mất hay. Vả lại lưng tôi bây giờ đã nhuyễn, vùng vai cũng sắp mượt, riêng bụng và ngực chưa hề qua tay thày. Chồng tôi sợ nếu không nhắc chắc thày bỏ qua, nên nhất định đòi thày giới thiệu những ngón tẩm quất nửa người phía trước. Thày nhất định thoái thác. Chồng tôi nói dỗi: "Hoá ra thày cũng kiêng kị lắm thứ như mọi người. Hay thày coi thường tôi?" Thày đáp: "Không dám ạ! Ông Giáo là người đi riêng một lối trong thiên hạ, có sợ ai coi thường! Còn chúng tôi, đã thế này thì phiền toái vào đâu mà ngại, chẳng qua là không có kinh nghiệm tẩm quất đàn bà, chỉ sợ mang tiếng làm vụng." Chồng tôi khích: "Ơ hay! Đàn bà với đàn ông không là người cả sao? Thày mà còn phân biệt đối xử thì ai bình đẳng cho? Tôi tưởng anh em mình không nói cũng nhất trí từ lâu rồi mới phải!" Anh thúc quá, thày đành giao hẹn: "Chúng tôi có nhỡ tay là ông Giáo chịu trách nhiệm đấy nhé!"

Tay thày nhỡ sao được. Tay ấy vê ngón tay tôi, vuốt mu bàn chân tôi, không quên một ly; tay ấy chẳng bao giờ chạm cái nốt ruồi, lần nào cũng quây gọn nó rồi lại thả nó, như vừa đánh vây vừa nhử; tay ấy nhổ tóc tôi tí tách, mỗi bụi tóc đủ hai mươi chín chiếc vừa bằng tuổi tôi; tay ấy kéo tai tôi ròn tan, bảy mươi tám chỗ kêu trên người tôi chẳng lầm chỗ nào; tay ấy mỗi lần trườn ngang nách tôi đều dừng tuyệt khéo sát chân triền ngực. Mắt người mù là ở tay. Tay ấy mười con mắt. Bây giờ tay ấy ôm ngang eo tôi, lùa trên bụng tôi, toả xuống ngang hông, chập chờn, thăm dò. Rồi quả quyết chườm quanh rốn. Rồi xoa, mỗi vòng một rộng, tay này đuổi tay kia, một quành xuống bụng dưới và một lội qua vùng ngực. Rồi ngọt ngào miết dọc những dẻ xương sườn. Rồi miết đi miết lại từ cổ xuống ức, lách giữa hai bầu ngực. Chồng tôi thấy chúng khít e vướng, nên khẽ nhón hai chỏm, rẽ ra cho rộng chỗ. Rồi tôi chẳng biết tay ai là tay ai nữa.

Một hôm nào đó chồng tôi lại bảo bỏ quần ngoài, để thày chỉ cho rõ những dấu hiệu lệch xương hông. Bệnh này không chữa thì nhẹ là đau lưng, nặng có thể gây rối loạn kinh nguyệt, thậm chí bế kinh, anh tìm sách đọc, biết như vậy. Bây giờ bệnh tôi đã chắc chắn, lệch xương hông trái phối hợp với căng khớp hông phải. Chồng tôi khẳng định vợ có đủ các triệu chứng, đặc biệt là khảnh ăn, táo bón, dễ cảm cúm và khó ngủ. Thày không dám chữa thì anh tự chữa cho vợ. Nhưng thày phải cố vấn. Phải thao tác mẫu cho anh luyện theo. Thày do dự: "Ông Giáo là người đọc sách, làm gì cũng có sách đỡ, thành hay bại đều dẫn lý thuyết ra viện được cả. Chúng tôi làm theo kinh nghiệm suông, thành hay bại là chuyện ăn may, thật không dám lấn sân khoa học đâu ạ. Chúng tôi xin kiếu." Chồng tôi đã quen co kéo với thày. Ông thày này tuy lấp lửng phức tạp, nhưng cuối cùng bao giờ anh cũng thuyết phục được. Anh thầm giễu cái lối vòng vo tam quốc, ra vẻ nhún để làm cao ấy là rách việc, là nệ rởm tinh thần ứng xử Á đông, nhưng cũng thú thấy mình bắt vở được thày và cầm chắc phần thắng. Lần này anh thẳng thừng đáp: "Thày mà an phận làm thợ tẩm quất đầu đường chắc tôi không vời đến. Cái khổ của anh em mình là lắm tham vọng mà cứ giấu giếm, khinh thiên hạ tầm thường mà lại sợ thiên hạ chê cười. Có mỗi việc chỉnh cái xương hông mà đã nhụt chí, đến lúc phải nắn trời thì làm thế nào!" Thày phản đối: "Ấy chết! Nắn trời thì ông Giáo phải tìm người khác." Chồng tôi túm ngay lấy câu ấy: "Nhưng chỉnh xương hông thì thày giúp tôi!" Thày gật. Hai người đàn ông thực ra đã thuộc nhau lắm. Họ đối đáp vì họ thích nghe nhau, càng đoán trước được nhau càng khoái trá.

Thày làm mẫu, chồng tôi theo. Anh vụng hơn nhiều. Thày ấn hai đầu gối mềm gọn xuống lưng tôi. Đến lượt anh thì hai đầu gối như hai đầu chày giã giò. Thày xát đùi tôi bên này xong từ lâu, đùi bên kia gác trên vai chồng tôi đã tê mà anh còn dùng dằng chưa dứt. Dứt làm sao được. Anh đã nhất định bảo tôi mặc chiếc quần lót thêu lồng tên vợ chồng. Đường thêu nổi, thày lần theo chắc đánh vần được. Thày bày toàn những động tác khó. Bóp dây chằng bẹn và cơ xương chậu. Xoay khớp xương hông. Chồng tôi nắm rất nhanh những gì có vẻ phức tạp. Anh còn tự đưa ra những đề nghị nghe rặt khoa học về mấu chuyển lớn, toạ cột, ngấn mông, khớp háng, bắp thịt xương cùng. Nhưng giản dị như bẻ lưng, anh không tập nổi. Anh ghì eo, cắn gáy và cào cấu ngực vợ mãi mà lưng vợ không kêu, đành mời thày ra hướng dẫn lại. Thày ngồi chắc chắn phía sau, đỡ tôi bằng hai đầu gối, cằm tì nhẹ trên gáy tôi, tay vòng qua nách ra trước, ôm quanh hai vai, khoá lại. Thày thúc nhẹ. Lưng tôi kêu rất đẹp. Tôi uốn người ra sau như cánh cung, chân chơi vơi không chạm chiếu, đầu ngả xuống ngực thày. Thày nghiêng xuống, má ấp má tôi một thoáng, miệng kề miệng tôi trong tích tắc. Tay nhẹ nhàng buông vai, hứng lấy hai bầu ngực. Ngực tôi từ cương dễ sợ, hai núm vểnh lên thật đáng xấu hổ. Nhưng thày bảo: "Cái trò tẩm quất này bỗ bã lắm, có gì sơ suất xin ông Giáo rộng lượng." Rồi bình tĩnh day thật đều, thật tròn, thật chậm. Tôi từ từ ngã hẳn vào lòng thày, nghe tim thày đập bình thản. Thày tẩm quất có hình dung ra tôi không? Hay chỉ sờ thấy đàn bà là cái bị thịt lồi lõm nhiều hơn đàn ông? Có mến tôi chút nào không mà tim vô tình thế? Chiều chồng tôi hay chiều tôi?

Hơn một tháng chồng tôi chăm chỉ dọn nhà, trải chiếu, đốt trầm, thắp nến. Mỗi cuộc tẩm quất đã thành một nghi lễ say đắm. Tôi tắm, xức nước hoa, xong là thày đến, đúng tám giờ. Tám giờ, trời tháng mười đã tối lắm. Ba người quấn vào nhau trong ánh nến. Chồng tôi như con nghiện, bao nhiêu cũng không vừa. Bây giờ chiếc quần lót thêu lồng tên hai vợ chồng anh cũng thấy vướng. Em mọi chỗ đều tự do sung sướng, sao chỗ này thiệt thòi? Một nhúm vải trên người nào đủ để hơn hay thiệt, tôi thật không rõ. Nhưng cởi mà chồng vừa ý, thì cởi là hơn. Tôi lại nhắm mắt nằm trong lòng thày như mọi lần, bỗng tay thày đang day sững lại. Hình như thày thoáng giật mình. Thoáng buông. Hay nửa buông nửa còn muốn giữ? Tôi nín thở. Hay thày ngại ngực tôi đa tình quá? Chẳng lẽ hôm nay nó hư đốn hơn mọi ngày? Hay thày chợt quên đang ngồi chiếu tẩm quất? Chiếu tẩm quất là chỗ tra tấn. Giần cho xác thịt tôi ngắc ngoải rồi bỏ. Tàn nhẫn. Man rợ. Hay là tinh vi? Nhưng thày sững lại lâu quá. Tôi mở mắt, thấy chồng lù lù giữa hai đùi vợ.

Thày đẩy tôi ra hay tôi vùng dậy? Hay chồng tôi giằng lấy vợ? Nhanh quá và điên rồ quá, tôi nào rõ, biết nói sao cho chồng an lòng? Anh chột dạ rằng, thày biết gì, nghe gì, đánh hơi thấy gì? Hay nhìn thấy gì mà bỗng đổi thái độ? Sao đang tẩm quất vợ anh bỗng dừng? Sao thoáng ngoảnh mặt lúc anh yêu vợ? Anh yêu vợ ý tứ lắm, lúc cực thả cũng khẽ khàng như không, lẽ nào chẳng thấy chẳng nghe chẳng sờ mà thày chạnh lòng. Bỏ đi như tự ái. Bỏ đi khi nến chưa tàn, không một lời nhắn lại.

Hôm sau chồng tôi không thắp nến. Trời đã tối hẳn. Anh bảo, nếu thật ở cõi nhật thực thì tối mịt chính là đèn giời. Xem thày quất này chỉ tinh đời hay tinh cả mắt.

Tôi nằm trong bóng đêm yên ổn mà vừa thương chồng vừa ái ngại cho thày. Nếu đêm đen thật là cõi của thày, mãi mãi đen ngòm, mãi mãi vô vọng, thì chồng tôi khỏi khổ sở. Khỏi rà lại từng động tác của thày, động tác nào cũng làm anh nhức nhối. Hình như thày tránh hơi khéo quá cái nốt ruồi? Hình như thày ấn xương mu kỹ lưỡng lắm. Hình như thày thuộc vợ anh từ trên xuống dưới hơn anh. Khỏi soát từng lời anh đã háo hức nghe và rung động. Hình như một hôm nào đó thày ví von, "da chỗ này đuổi da chỗ kia như sóng". Sóng là thứ không nhìn chẳng tả được như vậy. Lại bảo "tay khum như mui rùa", thày đã bao giờ thấy rùa? Thấy kiến? Thấy cò? Thấy rắn? Thấy long ly quy phượng? Nhưng lại bảo "trời đã bắt thế này thì đành chịu trời". Là trời bắt thế nào? Rồi bảo "tối tăm như chúng tôi". "Tối tăm" chứ không "mù loà", thằng cha tinh quái này chọn từ xảo quyệt lắm. Úp úp mở mở. Nửa thật nửa hợm. Chẳng bẻ hắn vào đâu được. Hắn không dâm đãng mà "bỗ bã". Hắn không bóp vú vợ anh mà "nhỡ tay". Mỗi ngày hắn "sơ suất" đè lên mông vợ anh, giạng đùi vợ anh ra vài lượt. Lại còn cái xương hông lệch! Hắn nhìn thủng vợ anh từng milimét rồi còn giả đò "chưa dám chắc". Bây giờ tố hắn đánh hoả mù có khác nào giơ cái mặt mình ngu ra giữa thiên hạ. Hỏi là người ta cười sằng sặc, bảo mười thằng đeo kính xẩm làm nghề quất, nghề bói, nghề hát rong, nghề ăn xin, thì chín thằng mù rởm. Mù thật thường làm nghề lương thiện, vót tăm, đan rổ, bóc lạc, tỉa hành. Chẳng ai biết thằng cha như anh tả là thằng cha nào. Tên tuổi không có. Tính nết khó chịu như thế may ra có gã vẽ truyền thần hết thời đi lang thang nói giọng trên đời. Thằng cha láu cá có lần nói bóng gió rằng hắn vốn mê nghề gì khác thì phải. Nghề vẽ truyền thần chắc? Nghề săm soi tận mắt từng milimét! Bây giờ anh há miệng mắc quai. Chơi dân dã thì dân dã liếm mặt như thế đấy. Chuộng đòn dân tộc cổ truyền một chút là dân tộc cổ truyền rờ hồn. Hắn mù đểu thì anh mù quáng thật. Lòng mình có bao nhiêu và xác thịt vợ có bao nhiêu phơi ra cả. Bây giờ lấy bóng tối mà bọc lại. Tắt đèn kẻ sáng ắt mù hơn kẻ mù.

Tám giờ thày không tới. Chín giờ cũng không tới. Bóng tối căng thẳng. Chồng tôi im lìm. Nhà tôi hôm nay không dọn, bàn ghế lại kê rất trắc trở, vấp là ngã vào đám chai lọ bày sẵn trên sàn. Tôi nằm bồn chồn như thuở nhỏ rình ma trong đêm. Lần này tôi sẽ không ngủ quên. Tháng mười một trời còn lâu mới sáng. Chín mù rởm kệ chín, cốt ở người thứ mười mù chân chính. Sao chồng tôi ưa tin ở thiểu số sáng suốt bỗng nản lòng sớm thế vì số đông? Đêm còn dài lắm và tôi còn đủ kiên nhẫn tin vào một cặp mắt xứng đáng tàn tật. Cầu cho thày mù. Mù trong sáng, tinh tường, kiêu hãnh. Mù mà dễ cho thày và đỡ phiền ai thì hãy mù hết lòng. Mù toét. Mù đặc. Mù hẳn. Mù vô vọng. Mù như khoét mắt bỏ đi. Mù cho chồng tôi ghi ơn tri kỉ. Mù làm khách quý trong nhà tôi mãi mãi. Mù từ hôm nay cũng chưa muộn. Tôi sẽ dẫn tay thày đến những chỗ cần tới. Tôi thuộc lắm đường đi lối lại. Tôi chờ chiều chuộng đã chín nẫu. Sao thày không ung dung bước qua bóng tối đến đây như bao ngày cho tôi rơi vào lòng?

Ròng rã bao nhiêu chờ đợi, tôi không đếm nổi. Không đếm những cú đấm cú véo và chà đạp, những vết bầm tím, máu me, sưng húp, rách nát, mỗi lần chồng tôi nọc vợ ra tẩm quất. Khi không chỗ nào trên cái bị thịt méo mó là tôi còn lành lặn, anh chẳng đụng tới nữa. Rồi cũng bỏ đi, không nhắn lại lời nào, như thày tẩm quất.


Tuesday April 14, 2009 - 01:58pm (ICT)



Entry for April 13, 2009- Cô đơn

(Vâng ạ)

Nghe em thở ra ngọt như mía lùi.

Bùi như khoai luộc.

Tim ta rộn rã run rẩy,

Tung tăng nhẩy múa hân hoan.

Bên tường rào với chuỗi hoàng lan điệu đà rũ cánh

Ta ngơ ngác hoang mang.

Giữa không gian tĩnh lặng.

Cuống quýt đi tìm

Giơ tay chới với…

Ta âm thầm chờ đợi…

Hoàng hôn mờ lối, nàng khuất xa chân trời…

Chỉ là ảo ảnh.

Để lại mình ta với chiếc bóng ngả dài trên lối xưa…

Monday April 13, 2009 - 03:46pm (ICT)



Entry for April 13, 2009- Vận hội mới
Đọc xong bài dưới đây, ta mới thấy hết những dự báo và viễn kiến của Anh Trần đông Chấn dần dần hiển lộ. Ta cũng thấy sự thay đổi trên chính trường Mỹ đã ảnh hưởng rõ rệt đến Đông Á và Đông Nam Á như thế nào, kể từ khi Obama lên làm TT.

Sự kiện nổi bật là "vụ
gây hấn của các tàu Trung Quốc với tàu Impeccable của Mỹ cho thấy, chúng ta đang đối mặt với những thách thức an ninh mới trong khu vực"-John McCain.

"Với tư cách người đứng đầu phe Cộng hòa tại Ủy ban Quốc phòng Thượng viện Hoa Kỳ, ông McCain đặt chủ đề an ninh và quốc phòng cao trong nghị trình chuyến thăm Á châu một tuần lần này."



Việc tạo ra "cái cớ" đưa tàu tuần thám vào Biển Đông lần này có giống việc
tầu khu trục USS MaddoxUSS Turner Joy của Hải quân Mỹ vào vịnh Bắc bộ tháng 08 năm 1964, tạo nên cuộc tấn công của Hải quân Bắc Việt, dẫn đến sự leo thang chiến tranh kéo dài cả chục năm sau?

Việc
Vinasat-1vệ tinh viễn thông địa tĩnh đầu tiên của Việt Nam được phóng vào vũ trụ lúc 22 giờ 16 phút ngày 18 tháng 4 năm 2008 mà Trung Quốc đã cực lực phản đối là "vi phạm chủ quyền lãnh thổ" có liên quan gì đến "an ninh ở Biển đông"? và có tìm thấy gì từ Tam sa của TQ?

Việc VN để cho TQ khai thác bô-xít tại Tây nguyên mới đây có phải là "sự nhượng bộ để thông qua việc ký kết Hiệp định cắm mốc biên giới, cụ thể hóa đường biên
để giới hạn sự thiệt hại ở mức đã phải thỏa hiệp", thoát khỏi gánh nặng bị đe dọa thường xuyên.

Chính quyền CSVN có tận dụng cơ hội cuối cùng này để quay đầu về với Quốc gia Dân tộc, mở rộng Tự do Dân chủ như mong mỏi tha thiết của toàn dân. Sự cảnh báo của Anh Chấn và sách lược của Obama sẽ không đủ kiên nhẫn nếu chính quyền lại bỏ qua cơ hội này.


Dự án bauxite Tây Nguyên –một giả thuyết
Thursday, April 09, 2009




Nghiêm Văn Thạch

“...Dân chủ hóa là vũ khí mà Việt Nam có thể sử dụng bất cứ lúc nào và thực ra, đã phải sử dụng từ lâu nếu có một đảng cầm quyền sáng suốt và trách nhiệm. Ngược lại, đó là vũ khí Trung Quốc rất khó - nếu không nói là không muốn - sử dụng mà không bị đe dọa tan vỡ...”

Một trong những đề tài hiện được các giới trong cộng đồng Việt Nam trong và ngoài nước bàn bạc nhiều là quyết định khai thác bauxite Tây Nguyên của chính quyền ở Việt Nam. Quyết định này gặp một làn sóng chống đối chưa từng có dưới chế độ cộng sản, hơn cả sự chống đối những vụ án chính trị, và cuộc đàn áp người Công giáo tại Thái Hà (Hà Nội) cầu nguyện đòi Công Lý. Sự phản kháng không phải chỉ đến từ đối lập dân chủ, mà ngay từ những người bình thường không có thái độ chính trị, thậm chí có nhiều người còn gắn bó với nhà nước. Vô tình, một đồng thuận dân tộc đã thể hiện được trong việc phản kháng kế hoạch khai thác bauxite ở Tây Nguyên.

Ðồng thuận dân tộc trên đây chứng tỏ quyết định của chế độ quá vô lý. Những người trong cuộc như các ông Nguyễn Trung, Nguyễn Thành Sơn, đã trình bày khá đầy đủ: lợi tức dự ước chẳng có bao nhiêu, trong khi tai hại lâu dài cho môi trường thực là kinh khủng, chưa kể những bất trắc khác về kỹ thuật. Nhà nước CSVN đã quyết định mà không hề căn cứ trên một nghiên cứu nghiêm chỉnh nào, tuy họ không thể không biết khai thác quặng bauxite sẽ gây hại lớn cho môi trường. Các nước phát triển như Mỹ và Tâu Âu đã dần dần từ bỏ sự khai thác bauxite, tuy họ là những nước tiên phong trong kỹ thuật tinh lọc khoáng chất ấy. Tổ chức COMECON trước đây từng khuyến cáo Việt Nam đừng khai thác bauxite; chính Trung Quốc đã dẹp bỏ những công trường bauxite của họ. Chính quyền CSVN cũng không thể không biết rằng trên thế giới ngày nay người ta chọn khai thác bauxite ở những vùng đất trũng, hoang vu ít người ở, để sự ô nhiễm không gây nguy hiểm cho sức khỏe của người dân, và lớp bùn đỏ độc hại không theo chiều dốc đổ xuống tàn phá khu vực dưới thấp. Ðây hoàn toàn không phải là trường hợp Tây Nguyên, một vùng khá nhiều dân cư, lại là nóc nhà của miền duyên hải Trung phần với miền Ðông Nam phần. Sự thiếu vắng nghiên cứu nghiêm chỉnh trước khi quyết định, được bộc lộ do chính hai người nhà nước cử ra để biện hộ: ông Hoàng Sĩ Sin, phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Lâm Ðồng, và ông Phạm Tuân Pha, bí thư tỉnh ủy Ðắc Nông. Họ không biết gì hết; rõ ràng là họ nói lời bênh vực kế hoạch theo mệnh lệnh đã nhận. Ông Dương Thanh Sùng, kỹ sư của dự án, thì bị các đồng nghiệp công khai đánh giá là chỉ có kiến thức ở mực độ “chai, lọ”.

Một giả thuyết

Như vậy, phải có một cái gì đó rất không bình thường khiến nhà nước cộng sản cho khai thác bauxite tại Tây Nguyên. Nhiều sự kiện hội tụ cho phép nghĩ rằng chính quyền quốc nội phải miễn cưỡng chấp nhận sự khai thác đó để đổi lấy sự hoàn tất việc cắm mốc ở biên giới Trung-Việt theo hiệp định ký từ năm 1999.

Nhận định khởi đầu, là thời điểm công bố quyết định khai thác bauxite Tây Nguyên trùng hợp với thời điểm hoàn tất cắm những mốc cuối cùng. Theo nhà văn Nguyên Ngọc, dự án khai thác được duyệt phê năm 2007, vào lúc Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tiếp tục tiến hành việc cắm mốc. Thêm nữa, Trung Quốc chính là nước được giao cho việc khai thác bauxite Tây Nguyên, mà không phải qua một cuộc đấu thầu công khai nào. Nếu là ngẫu nhiên, thì đây là sự ngẫu nhiên quá đặc biệt.

Trước khi nói tiếp về các yếu tố khác hỗ trợ cho giả thuyết này, thiết tưởng cần tìm đáp án cho một dấu hỏi lớn hầu như chưa ai để ý đúng mức: việc phân định biên giới Việt-Trung đâu có lợi gì cho Việt Nam mà nhà cầm quyền phải cầu cạnh rồi nhượng bộ để hoàn tất cắm mốc? Hiệp ước biên giới 1999 thực không có lợi cho Việt Nam, nó còn chính thức hóa nhiều mất mát của nước ta. Ðiều trớ trêu là chính phía bị thiệt hại là Việt Nam lại muốn thể hiện xong cho nhanh hiệp ước này bằng cách hoàn tất việc cắm mốc. Phải chăng là để giới hạn sự thiệt hại ở mức đã phải thỏa hiệp?

Quan hệ Việt-Trung trở nên khó khăn sau Hiệp Ðịnh Paris tháng 01/1973. Từ đó chế độ cộng sản Bắc Việt dựa riêng vào Liên Xô; mọi trợ giúp từ Trung Quốc đều chấm dứt. Chiến thắng tháng 4/1975 của đảng CSVN không phải là tin vui cho Bắc Kinh, và đảng CS Trung Quốc đã không cử phái đoàn tham dự Ðại hội IV của đảng CSVN năm 1976. Ðảng CSVN lúc ấy tin tưởng sự hỗ trợ của Liên Xô cho phép họ có thể bất đếm xỉa và tùy ý thách thức Trung Quốc. Họ phát động cuộc xâm lăng Cambodia năm 1978. Tình trạng căng thẳng với va chạm lẻ tẻ ở biên giới phía Bắc lập tức nảy sinh, rồi cuộc chiến Việt-Trung bùng nổ đầu năm 1979. Chính thức thì hai bên tuyên bố là cuộc chiến giới hạn trong không gian và thời gian đã đình chỉ sau một tháng, nhưng chiến tranh “âm thầm” còn tiếp tục đến hơn mười năm sau. Âm thầm vì cả hai bên đều bưng bít tin tức, tuy có những trận đánh lớn đẫm máu như trận Lão Sơn năm 1986. Ðừng quên là Trung Quốc đánh chiếm Trường Sa năm 1988.

Trong khi cuộc chiến này diễn ra thì Liên Xô suy yếu dần dần và sụp đổ; Việt Nam hoàn toàn mất chỗ nương tựa. Mặt khác, Trung Quốc thực hiện chính sách mở cửa kinh tế, bắt tay với Mỹ và Châu Âu từ 1978 và tăng trưởng mạnh, trong khi chế độ cộng sản ở Việt Nam ôm giữ giáo điều và liên tục suy thoái. Chính sách “đổi mới” được đưa ra năm 1986 khi Việt Nam hoàn toàn kiệt quệ; cuộc chiến biên giới trở thành tuyệt vọng đối với Việt Nam vì Trung Quốc vừa có sức mạnh quân sự áp đảo lại có khả năng tài chính để mua chuộc các sắc tộc ở vùng phân ranh. Nhiều bản làng thuộc Việt Nam từ xưa, nay tự nhận là họ ở trên đất Trung Quốc, đã di dời cột mốc biên giới vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Trong hoàn cảnh này, chính quyền CSVN vừa kiệt quệ vừa cô lập với thế giới do cuộc xâm lăng Cambodia trong thái độ huênh hoang của chiến thắng 1975, không thể mong muốn gì hơn là đừng mất đất thêm nữa.

Kể từ Ðại hội VII của đảng CSVN, liên minh Ðỗ Mười-Lê Ðức Anh nắm được thế chủ động, chính thức cầu hòa với Trung Quốc để được yên thân. Thế hòa này thực ra là thế hàng, vì Việt Nam đã mở cửa trễ 8 năm, mức tăng trưởng sau đó ở mức độ thấp kém nhiều so với Trung Quốc. Ảnh hưởng Trung Quốc tiếp tục đè nặng lên vùng biên giới Việt-Trung; áp lực kinh tế thay thế cho áp lực quân sự.

Một sự kiện nữa nhức nhối không kém cho Việt Nam là cấu tạo sắc tộc của vùng phân ranh. Hai sắc dân đông đảo nhất là Tày và Nùng gồm khoảng hai triệu người, chung gốc với người Chuang ước lượng vào khoảng 18 triệu ở tỉnh Quảng Tây. Ngoài ra còn nửa triệu các sắc dân Dao, Giấy, và người gốc Hoa ở Quảng Ninh. Những sắc dân này không cảm thấy ràng buộc chặt với Việt Nam và rất dễ bị lung lạc; trên thực tế họ đang bị Trung Quốc mua chuộc. Bất ổn tại biên giới có thể xảy ra bất cứ lúc nào khi Trung Quốc muốn, dù có hiệp định 1999. Cắm mốc biên giới tuy không giải quyết được tất cả, nhưng ít nhất sẽ cụ thể hóa biên giới chính thức và là một nhẹ nhõm cho Hà Nội. Trung Quốc biết như thế nên cố tình trì hoãn, trong khi vốn của họ tuôn đổ vào vùng biên giới và là lực đẩy cuộc Hoa hóa trong các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh.

Cũng nên nhắc tới một sự kiện ít được các nhà bình luận nêu ra, vì nó được công bố trong vài dòng: hội nghị Trung Ương 9, tháng 2/2009 vừa qua, đã quyết định từ nay, các cấp lãnh đạo ở địa phương như bí thư đảng ủy, chủ tịch hội đồng nhân dân, không nhất thiết phải là người địa phương. Phải suy xét kỹ mới thấy đây là biện pháp để chính quyền trung ương có thể quản lý trực tiếp và chặt chẽ hơn nữa các tỉnh biên giới.

Chính sách nào để lựa chọn?

Việt Nam không có trong tay áp lực gì khả thi để buộc Trung Quốc cụ thể hóa đường phân ranh. Nhưng cuối cùng, Trung Quốc đã đồng ý hoàn tất việc cắm mốc cuối năm 2008. Như vậy, Việt Nam tất phải đánh đổi một cái gì đó hầu đạt mục tiêu. Phải chăng chính là quyết định cho Trung Quốc khai thác bauxite ở Tây Nguyên?

Sự kiện hỗ trợ cho già thuyết này, là Trung Quốc đem người của họ qua Tây Nguyên tuy khai thác bauxite chỉ cần một kỹ thuật sơ sài, không đòi hỏi những người thợ chuyên nghiệp, và Việt Nam không thiếu nhân công lại đang bị nạn thất nghiệp nặng. Việc này còn có thể là dấu chỉ phía Trung Quốc không tin Việt Nam sẽ thực sự tiến hành kế hoạch khai thác, trái lại sẽ tìm cách diên trì việc thực thi yêu sách đã phải miễn cưỡng chấp nhận.

Một sự kiện nữa nổi bật: lần đầu tiên dưới chế độ cộng sản, chính quyền không đàn áp những tiếng nói công khai phản kháng, và cũng không lên tiếng gián tiếp hay trực tiếp biện hộ cho “quyết định chiến lược” của mình - lời tuyên bố của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng. Bình thường thì những người dám lên tiếng phản đối một quốc sách nếu không bị bắt giam ngay cũng bị “hỏi thăm” kỹ lưỡng. Và tại sao trước những lập luận phản bác rất chính xác xuất phát từ những nhân vật có thẩm quyền trong lãnh vực, nhà nước lại giữ im lặng, dành lẽ phải cho những người phản kháng? Ðây không thể là một sự tình cờ. Một giải thích có vẻ hợp lý là chính quyền cố ý dung túng cho sự chống đối kế hoạch bauxite Tây Nguyên lên cao để có lý do trì hoãn trong tiến trình áp dụng. Giải thích này tăng trọng lượng bởi sự kiện Phó Thủ Tướng Hoàng Trung Hải được ủy nhiệm tổ chức một hội thảo về dự án. Nói tới hội thảo tức là nhiều hay ít, vấn đề còn cần được nghiên cứu thêm. Phải chăng lời tuyên bố chắc nịch của ông Nguyễn Tấn Dũng chỉ là lời tuyên bố theo nhu cầu chính trị thời điểm để làm yên lòng Trung Quốc?

Ðối với tham vọng lãnh hải của Trung Quốc, Hà Nội có thể nghĩ rằng nay mốc biên giới đã cắm xong, Việt Nam có khuôn khổ hành động mở rộng hơn trước. Sự kiện biện giải cho lý luận này là việc Hà Nội, cũng là lần đầu tiên, cho phép tổ chức một hội thảo về tranh chấp trên Biển Ðông. Các tham dự viên đều phát biểu ý kiến phủ nhận công hàm 1958 của Phạm Văn Ðồng, khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Dù không có sự hiện diện của ai trong số mấy vị lãnh đạo đảng và nhà nước khi khai mạc, sự kiện hội thảo khai diễn ở thủ đô Hà Nội cho thấy chính quyền CSVN không còn dứt khoát loại bỏ một chính sách đối đấu với Trung Quốc, nếu cần thiết. Trên biển, thế của Việt Nam không nguy kịch như trên đất liền, bởi vì biển không thể bị chiếm đóng một cách thường trực. Trung Quốc có thể có những hành động thách thức nhưng không thể xác định một cách vĩnh viễn đòi hỏi lãnh hải của họ; trong khi Việt Nam vẫn có thể tuyên bố ranh giới hải phận hợp pháp của mình. Trung Quốc có khả năng tạo tình trạng bất ổn nhưng không thể hợp thức hóa tham vọng của họ, lại không thể yêu sách quá đáng mà không gặp phản ứng bất lợi của thế giới.

Lời đoán phỏng Hà Nội đã miễn cưỡng cho Trung Quốc khai thác quặng bauxite Tây Nguyên chỉ có giá trị giả thuyết, nhưng nó có thể luận giải một loạt sự kiện không bình thường vừa diễn ra. Nếu không thì các sự kiện đã dẫn không có giải thích, tương tự kế hoạch bauxite không cần phải là chuyên gia mới có thể thấy rõ là dự án hoàn toàn vô lý. Chính quyền Việt Nam hiện nay không thiếu chuyên gia, vậy không thể cho là họ không được thuyết trình đủ sự kiện khoa học kỹ thuật, kinh tế và môi trường liên quan. Giải thích rằng những người lãnh đạo chế độ cộng sản là những kẻ táng tận lương tâm, sẵn sàng bất chấp thảm kịch cho đất nước để mưu lợi cá nhân, cũng là giải thích quá dễ dãi. Người cầm quyền nào, dù tồi tệ đến đâu, cũng bảo vệ quyền lợi của quốc gia họ lãnh đạo, vì lý do giản dị là không ai muốn mất những gì thuộc thẩm quyền quản trị của mình.

Nói như thế không phải là tìm cách biện hộ cho chính quyền cộng sản. Ngay cả khi giả thuyết ở trên là đúng, đảng và nhà nước cộng sản cũng sai lầm lớn trên hai điểm rất trọng yếu:

- Một là vấn đề biên giới phía Bắc chưa thể coi là ổn định xong khi đã cắm mốc.

Với cấu tạo các sắc tộc trong vùng, và đặc biệt với sức mạnh kinh tế, Trung Quốc vẫn có thể mua chuộc các sắc dân này và gây xáo trộn. Biên giới phía Bắc sẽ chỉ thực sự ổn vững khi những người Tày, Giấy, Dao, Nùng, Hmông, Hà Nhì, cảm thấy thoải mái trong quốc gia Việt Nam và tự nguyện là người Việt Nam. Quyết định của hội nghị Trung Ương 9 là một sai lầm, vừa không có giá trị pháp lý vì chỉ là một quyết định của đảng, vừa là một khiêu khích đối với các sắc tộc địa phương.

- Hai là Việt Nam không phải không có “thế” để ứng phó với Trung Quốc.

Việt Nam sẽ được thế giới bênh vực, nếu có một hình ảnh tốt đối chiếu với Trung Quốc tuy mạnh nhưng vẫn là một chế độ độc tài đảng trị, theo đuổi chính sách bá quyền gây lo ngại cho các lân bang và thế giới.

Di sản lịch sử không có lợi cho Trung Quốc. Người dân các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây, đặc biệt là 18 triệu người Chuang cùng chủng tộc với người Nùng, người Tày ở nước ta, chưa thể quên là ba phần tư dân số tỉnh này đã bị Bắc Kinh - họ gọi là “người Bắc phương” - tàn sát cuối thế kỷ 19. Càng thăng tiến bao nhiêu thì ký ức lịch sử càng trở lại mạnh mẽ bấy nhiêu. Trung Quốc cũng có vấn đề tương tự với các dân tộc vùng Viễn Tây và Tây Tạng.

Thế mạnh của Việt Nam là có thể dân chủ hóa trọn vẹn mà vẫn là một quốc gia thống nhất còn gắn bó hơn, trong khi Trung Quốc không thể dân chủ hóa mà không phải đương đầu với những đòi hỏi ly khai không thể giải đáp. Dân chủ hóa là vũ khí mà Việt Nam có thể sử dụng bất cứ lúc nào và thực ra, đã phải sử dụng từ lâu nếu có một đảng cầm quyền sáng suốt và trách nhiệm. Ngược lại, đó là vũ khí Trung Quốc rất khó - nếu không nói là không muốn - sử dụng mà không bị đe dọa tan vỡ.

Nếu chúng ta có một chế độ dân chủ đa nguyên thực sự, các sắc dân biên giới, kể cả người Chuang tại Quảng Tây, chắc chắn sẽ muốn làm người Việt Nam hơn là người Trung Quốc. Ngay những người Hoa ở các tỉnh tiếp giáp với Việt Nam sẽ thấy gần với Việt Nam hơn là Bắc Kinh. Lúc đó Trung Quốc, hơn cả Việt Nam, sẽ mong muốn chấm dứt mọi tranh chấp giữa hai nước.

Paris, Tháng Tư 2009

Nghiêm Văn Thạch


Monday April 13, 2009 - 06:41am (ICT)

Không có nhận xét nào: