Trong mấy tuần qua, tôi có đọc 2 bài của Trịnh Cung, tức Nguyễn Văn Liễu, và của Bằng Phong Đặng Văn Âu, viết về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS). Trịnh Cung viết “Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị.” Bằng Phong Đặng Văn Âu viết “Nhạc Sĩ Trinh Công Sơn. Một Thiên tài đồng lõa với tội ác.”
Hai tác giả với hai bài viết nói về TCS, nội dung khác nhau, nhưng cả hai đều chỉ đưa ra một vài dữ kiện, hoặc khách quan, hoặc chủ quan, qua tình bạn của họ đối với nhạc sĩ TCS. Để rồi, hai tác giả đều không kết luận, hoặc là không muốn kết luận, một điều quan trọng: Trịnh Công Sơn bên nào? Bên này? Bên kia? Hay nói trắng ra, Trịnh Công Sơn là ai, quốc gia hay cộng sản?
Đã bao năm qua, kể từ sau 1975, và mãi đến những ngày gần đây, người viết vẫn giữ thái độ im lặng. Nhưng sau khi đọc xong bài của Trịnh Cung và của Bằng Phong Đặng Văn Âu, tôi quyết định lên tiếng về những gì, vì lý do nghề nghiệp, tôi đã nắm rất tường tận về TCS. Lý do cũng đơn giản, bạn đọc sẽ hiểu được khi đọc xong bài này.
Đã có nhiều ca ngợi, nhiều tranh cãi, lý luận, cuối cùng, có lẽ đã đến lúc sự thật về con người Trịnh Công Sơn cần được trình bày tường tận, rõ ràng.
Trong bối cảnh mà đất nước nghiêng ngả tang thương vì nhiều vấn nạn, trước thảm hoạ xâm lăng cuả toàn bộ lực lượng cộng sản (CS) quốc tế, đặc biệt là Trung Cộng, qua bàn tay CS Hà Nội, Trịnh Công Sơn đã cống hiến gì cho quốc gia?
Là trưởng cơ quan an ninh tình báo Thừa Thiên–Huế từ 1966 đến đầu 1975, tôi giữ trách nhiệm chính về vấn đề gìn giữ an ninh trật tự, bảo vệ sinh mạng và tài sản cho đồng bào trong tỉnh. Và trên hết mọi chuyện, là đối phó với cục Tình Báo chiến lược Bắc Việt, lồng một mạng lưới tinh vi và dày đặc CS nằm vùng tại Huế. Thật không sai khi nói Huế là một ổ nằm vùng. Do vậy, có lẽ chúng tôi có bổn phận phải biết rất kỹ về TCS và toàn bộ những phần tử CS khác hoạt động tại đây.
Tôi biết TCS và nhóm người nối giáo cho giặc này dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tôi biết họ từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, từ thói quen đến phẩm hạnh, đến tiểu sử, đến gia đình, thậm chí, nếu cần, thì cả gia phả, v.v… Tôi có trách nhiệm phải biết. Trong bài này, tôi sẽ, một cách thẳng thắng, trình bày về những sự việc, thông tin, dữ kiện mà chúng tôi có được về TCS và nhóm nằm vùng. Người viết hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ cho lịch sử, và cho những ai quan tâm đến vấn đề TCS, cũng như các hoạt động chung của ông và các phần tử nằm vùng khác tại Huế.
Dù yêu, dù ghét, dù hận thù, dù ngưỡng mộ tôn sùng, dù căm phẫn… những thông tin gốc từ những trải nghiệm thực của nhân chứng sống là điều cần thiết để quý bạn đọc có thể tự mình thẩm định lại một cách sòng phẳng về con người TCS. Chúng ta, dù thế nào đi nữa, không ai muốn bị bịp cả!
Trịnh công Sơn bên nào – Bên này, hay bên kia? Quốc gia, Cộng sản?
Trước khi xác nhận cũng như công bố nhiều chuyện liên quan đến TCS, xin được phác hoạ lại tình hình an ninh và nội chính của Thừa Thiên–Huế, sau ngày 01/11/1963.
Sau đảo chánh, ảnh hưởng và thế lực chính trị của khối Phật giáo (PG) Ấn Quang, và đặc biệt của Thích Trí Quang, và Thích Đôn Hậu đối với chính quyền trung ương cũng như địa phương, và trong hàng ngũ tín đồ Phật giáo tại miền trung, nhất là tại Huế, quá manh!
Chùa Từ Đàm trở thành Dinh Độc Lập II. Đó là trung tâm quyền lực thật sự ở miền Trung. Tại miền Trung, chùa Từ Đàm trở thành dù che chắn cho mọi hoạt động của các cơ quan dân vận, tôn giáo vận, trí thức vận, tổ chức học sinh, sinh viên “Giải Phóng” thành phố thuộc Đại Học Huế và các trường Trung học. Tất cả đều nằm dưới sự điều động của tỉnh ủy Thừa Thiên–Huế và Thành ủy Việt cộng.
Hầu như không có một cơ quan an ninh nào của chính phủ VNCH dám đụng vào các ổ nằm vùng gần như công khai này. Nếu đụng đến họ, sẽ bị lu loa là “tàn dư Mật Vụ Nhu Diệm”, là “đàn áp Phật Giáo”, là tàn đời! Mọi tổ chức, mọi cơ sở nội thành của Việt Cộng được được hoạt động gần như bán công khai. Tất cả dưới sự điều động của Trung Tá điệp Viên Hoàng Kim Loan, thuộc Cục Tình báo Chiến lược Bắc Việt. Người trung gian liên lạc là Nguyễn Khắc Từ, bí thư thân tín của Thích Trí Quang.
Sau 1975, Nguyễn Khắc Từ lộ diện là Đại tá Việt Cộng. Hỗ trợ tận tình cho Hoàng Kim Loan là Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu.
Có thể nói từ 1963 đến 1966, là thời gian rối loạn miền Trung có nguy cơ đưa đến tình trạng vô chính phủ do ông Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu cầm đầu. Trong ba năm đó, miền Trung, nhất là Huế được coi là “căn cứ địa” của những sinh hoạt chính trị khuynh loát, phá rối có thể đưa đến những hậu quả chính trị có nguy hại đến an ninh của chính thể VNCH. Các ông Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu và các “thầy tranh đấu” của họ, đã vô hiệu hóa các hoạt động của các cơ quan tình báo của chính phủ tại nhiều nơi, nhất là tại Thừa Thiên– Huế.
Những hoạt động chính trị đó đã mở đường cho CS tự do ra vào, đồng thời báo hiệu nguy cơ một sự suy sụp của chính thể VNCH.
Trước 1963, hoạt động mật vụ của VNCH khá hữu hiệu. Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung (ĐCTĐNMT) lúc bấy giờ do ông Dương văn Hiếu làm trưởng đoàn. Nhưng, người chỉ huy thật sự bên trong lại là ông Ngô đình Cẩn. Ông là một người có năng khiếu thiên phú về tình báo, dù chưa hề qua một trường lớp đào tạo chính quy nào. Có thể nói đây là một năng khiếu bẩm sinh kỳ lạ của ông, đặc biệt là năng khiếu chống du kích chiến và chống dấy loạn trong thành phố. Cơ quan tình báo tinh nhuệ này đã phá vỡ và bắt giữ hầu như toàn bộ các cán bộ tình báo cao cấp của Bắc Việt gởi vào miền Nam. ĐCTĐNMT đã bẻ gẫy mọi mưu toan của Hà Nội về chính trị cũng như quân sự, nhất là mục đích phá rối chính trị để làm suy sụp miền Nam.
Tài năng và công lao rất lớn của ông Ngô đình Cẩn đã đực đối thủ xác nhận. Đại tướng Quân đội Nhân dân, Văn Tiến Dũng, nói “Dưới thời Diệm, ta đã gởi vào Miền Nam 60 ngàn cán bộ, cuối cùng chỉ còn 5 ngàn, như vậy là thiệt hại đến 90%.”
Sau khi Tổng thống Diệm bị đảo chánh bị đám tướng lãnh phản loạn – bất chấp luật pháp, bất chấp kỷ cương đất nước, bất chấp đạo lý, bất chấp tình người – giết thì ông em út cũng bị cùng chung số phận! Toà án gì đây? Luật pháp gì đây? Luật của ông Thích Trí Quang? Luật của ông Thích Đôn Hậu? Luật của cái gọi là “Phật Giáo đấu tranh”? Tội gì thưa quý bạn đọc? Tội bắt nhiều CS! Ông Dương văn Hiếu, nhờ có ông Cẩn thế mạng rồi, nên “quý thầy” khó làm áp lực thanh toán. Sau đó, cũng nhờ “đế quốc Mỹ xâm lược” can thiệp, nên chỉ bị tù.
Một cơ quan tình báo tinh nhuệ, đặc biệt, và bí mật khác, do ông Phan Quang Đông chỉ huy cũng bị xóa sổ. Cơ quan này hoàn toàn chỉ liên quan đến những điệp vụ quan trọng ngoài Bắc. Dù không hề dính dáng gì đến chuyện đàn áp Phật Giáo họ cũng bị ông Thích Trí Quang vu vạ rồi giết. Theo lệnh Hà Nội, ông Thích Trí Quang áp lực, yêu cầu chính phủ đương nhiệm, qua trung gian Nguyễn Chánh Thi, xử tử hình Phan Quang Đông, một viên chức chỉ huy tình báo tài ba xuất sắc, với tội “Mật vụ Nhu Diệm”!
Cơ quan tình báo thứ 3 hoạt đông rất hữu hiệu tại Huế, là Ty Công an Thừa Thiên của chính phủ VNCH. Số phận cơ quan này cũng bi thảm không kém. Ông Lê Văn Dư Trưởng ty bị bắt giữ.
Hầu hết nhân viên phụ trách tình báo của 3 cơ quan này, hoặc bị sa thải, hoặc bị bắt, hoặc bị thuyên chuyển khỏi các chức vụ trọng yếu. Tất cả cũng với tội danh tương tự: “Mật vụ Nhu–Diệm, đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy, v.v…”
Sau khi loại trừ sạch các thành phần “Mật vụ Nhu Diệm ác ôn”, các thầy liền thay vào cái bình cũ là cơ quan tình báo của VNCH, loại rượu mới do quý thầy bào chế ra, đó là rượu “nằm vùng”!
1. Nguyên Quận trưởng Cảnh sát Nguyễn văn Cán, một nhân viên tình báo rất quan trọng của Trung tá điệp viên CS Hoàng Kim Loan, được phong làm trưởng ty CSQG thị xã Huế. Ngoài ra, Nguyễn văn Cán còn là cơ sở nuôi dưỡng tên Phan Nam, Thành ủy Huế, đặc trách an ninh của cơ quan thành ủy VC; Phan Nam trú ngụ thường xuyên trong nhà của Nguyễn văn Cán. Sau 1975 Phan Nam làm Chủ Tịch Ủy ban nhân dân thành phố Huế.
2. Trần văn Cư, đệ tử thân tín của ông Thích Đôn Hậu, được phong làm trưởng ty Công An Thừa Thiên. Trần văn Cư chính là người thẩm vấn thụ lý nội vụ ông Phan Quang Đông. Thừa lệnh CS Hà Nội, Thích Đôn Hậu, và Thích Trí Quang ngầm ra lệnh cho chính quyền, xử bắn Phan Quang Đông tại sân vận động Tự Do, thuộc quận III thị xã Huế, với tội danh, “Mật vụ Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo thủ tiêu Quí thầy, v.v…”
Đau đớn và cười ra nước mắt, là từ 1966 đến 1968, hai ty Cảnh Sát lại giao cho hai tay nội tuyến Việt Cộng. Ty CSQG tỉnh Quảng Trị có Trưởng ty lại là Đại Úy Lê Cảnh Thâm, làm việc cho cơ quan Quân Báo của VC. Ty CSQG Thừa Thiên–Huế với Trưởng ty là Đoàn Công Lập, nhân viên thuộc cấp của Trung tá điệp viên CS Hoàng Kim Loan.
Khoảng thời gian dài này, 1966–1968, là thời hoàng kim của các hoạt động CS nằm vùng. Chỉ cần dán nhãn hiệu “Mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy” cho kẻ thù, là mọi việc xong ngay! Cả Miền Nam hoang mang, lo sợ, điêu đứng; biết bao thân phận bị vùi dập, cũng vì cái nón “mật vụ” này.
Sau khi 3 cơ quan tình báo quan trọng và hữu hiệu này bị “các thầy” xóa sổ, cơ sở Việt Cộng trong thành phố Huế sinh phát triển tự do sôi nẩy nở như rạ, như nấm. Chính quyền tuy biết, nhưng không dám đụng đến, vì sợ đụng chạm tới Phật Giáo, sợ luôn cái nón “Mật thám Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo”. Quý thầy đã thật sự thành công trong việc tự đồng hóa “các thầy” với “Phật giáo” thuần tuý. Viết đến đây tôi không khỏi không bật cười. Tương tự như vậy, trên 60 năm nay, đảng CSVN cũng đã tự đồng hóa họ với tổ quốc Việt Nam! CSVN cũng đã thành công không nhỏ với người trong nước, nhất là với đồng bào miền Bắc! Quý thầy cũng thành công – thành công với một số lớn phật tử miền Trung!
Đại đa số các tổ chức CS như thế và hầu hết những kẻ tham gia trong các tổ chức đó, đều đã được ông Thích Trí Quang, Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Kim Loan bọc cho cái vỏ tôn giáo. Tỷ dụ như Liên đoàn Học sinh, Sinh viên Phật tử, công chức Phật Tử, Quân nhân Phật tử, Cảnh sát Phật tử, Tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba, v.v…
Trong thành phố mọc lên nhiều địa điểm hội họp, tiếp xúc, của nhiều trí thức, giáo sư, sinh viên, học sinh, hoạt động cho các tổ chức trí thức vận, tôn giáo vận của Thành ủy Huế. Những địa điểm nầy trong danh từ chuyên môn chúng tối gọi là những “căn cứ lõm” của địch, tỷ như:
(a) Quán Café “Bạn Tôi” – Ở đường Đào duy Từ, tại vùng Đập Đá thuộc quận III thị xã Huế. Lê văn Sâm, SV luật khoa, thành lập và làm chủ quán. Có Ngô Kha, vợ chồng giáo sư Đỗ Long Vân ở Pháp về, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn hữu Ngô, nhà văn Túy Hồng, Phan Duy Nhân, Trần Quang Long.
(b) Lực lượng Giáo chức tranh đấu tại Huế – Chủ tịch, kiêm chủ bút diễn đàn báo Dân là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phó chủ tịch là giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm. Ngoài ra còn có tờ Sinh Viên Huế của tổng hội SV Huế, và tờ Lập Trường của nhóm trí thức đại học Huế, do giáo sư Tôn Thất Hanh làm chủ nhiệm. Chủ trương Chống lại cái gọi là “Chế độ Diệm mà không Diệm”. Quý vị độc giả, ai là người uyên thâm, xin hãy diễn giải và dẫn chứng rành rẽ, cụ thể, chứng minh dùm tôi, cụm từ “Diệm mà không Diệm” này! Tôi chịu thua. Những lộng ngôn loại này là do ai làm ra? Ai sáng tác? Ai nghe theo? Mục đích là gì nếu không để phá nát tất cả các chính quyền miền Nam, bất kể là ai lãnh đạo. Tổng thống Ngô đình Diệm đã bị họ gián tiếp giết, phong cho danh hiệu mang đầy tính tội ác, rùng rợn, răn đe, “Mỹ Diệm”, “Mật vụ Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy”. Đất nước sau đó tang thương đổ vỡ, chính trị rối loạn, nhưng vẫn chưa vừa lòng, họ thừa thắng xông tới. Họ đe doạ các chính quyền kế tiếp khác bằng khẩu hiệu mang tính bình mới rượu cũ, “ Diệm mà không Diệm”. Chỉ đơn giản vậy, nhưng buồn cười thay, một loạt các chính quyền sau đó đều xếp re, không dám hó hé với nhóm “Phật Giáo Đấu Tranh” này.
(c) Tuyệt Tình Cốc – Nằm tại hẽm Âm Hồn thuộc quận I thị xã Huế. Nguyên là ngôi nhà của cha mẹ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Sau khi hai ông bà dời nhà ra gần cửa Đông Ba, anh em Tường, Phan biến nơi nầy thành trung tâm hội họp hoạt động của đám sinh viên, trí thức cơ sở thành ủy VC Huế.
Tuyệt tình cốc là một ngôi nhà tranh, trong một khu vườn nhỏ có cây ngọc lan. Đến mùa hoa nở, hương thơm ngát.
Nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan đã đặt tên cho cây ngọc lan này là “Cây hoa tình”, và ngôi nhà kia là “Tuyệt tình cốc”,vay mượn trong tác phẩm kiếm hiệp Thần điêu đại hiệp của tác giả Kim Dung. Tuyệt tình cốc thường xuyên do anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì sau nầy còn có hoạ sĩ Đinh Cường. Trịnh Công Sơn, nữ văn sĩ Túy Hồng, Ngô Kha, Trần vàng Sao, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Xuân Kiêm, chủ tịch tổng hội sinh viên Huế, cũng đã xuất hiện nhiều lần tại đây. Hầu hết đám này là cơ sở sinh viên và trí thức vận của thành ủy Huế. Tuyệt tình Cốc cũng là nơi xuất bản tờ báo Việt Nam Việt Nam của nhóm kể trên, trong khoảng thời gian phong trào tranh đấu Miền Trung của Thích Trí Quang, giai đoạn cao điểm vào đầu hè 1966.
(d) Căn phòng của Lê Văn Hảo – Giáo Sư nhân chủng học, Đại Học Huế cũng là nơi Hoàng phủ Ngọc Tường và đám sinh viên hoạt động cho Thành ủy VC dùng làm nơi viết và xuất bản báo chí.
Vô số những trí thức, học sinh, sinh viên hoạt động cho VC tại thành phố Huế. Họ tham gia sách động, trong vai trò lực lượng quần chúng: Cách mạng đấu tranh của biến cố 1963, rồi cuộc tranh đấu bạo động 1966. Nhìn biết những điều này không khỏi giật mình tự hỏi, “Huế không mất vào tay CS trước Mậu Thân 1968 thì quả thật là một phép lạ!”
Hãy đọc qua danh sách ổ Việt Cộng nằm vùng dưới đây.
– Nguyễn Thiết, Sinh viên (SV) Luật Khoa, phụ trách Thanh niên Thành ủy Huế, thóat ly lên Mật khu 1965.
– Trần Quang Long, SV Việt Hán, Đại Học sư phạm, thoát ly năm 1968.
– Lê Minh Trường, SV Mỹ Thuật, vượt ngục lên mật khu, sau đó xâm nhập tái hoạt đông bị lực lượng CSĐB phục kích bắn chết tại làng Hải Cát Hạ, quận Nam Hoà.
– Vĩnh Kha, SV Văn khoa, Chủ tịch Tổng hội SV, Đoàn trưởng đoàn SV Phật Tử.
– Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo sư.
– Hoàng Phủ Ngọc Phan, SV Y khoa.
– Nguyễn Đính, SV Văn khoa, bút hiệu Trần vàng Sao.
– Phạm Thị xuân Quế, Bác sĩ, Chủ tịch hội phụ nữ thành phố Huế.
– Thái Thị Ngọc Dư, sau này đậu Tiến sĩ Địa lý học tai Pháp
– Trần Anh Tuấn, Tiến sĩ Luật Khoa tại Mỹ
– Hoàng Văn Giàu, Phụ khảo Đại học Văn khoa Huế, Đoàn Trưởng đoàn SV Phật Tử Huế. Hiện ở Úc Châu.
– Thái thị Kim Lan, Sinh viên Văn khoa, sau du học, đậu Tiến Sĩ triết học tại Đức
– Nguyễn Đắc Xuân, SV Việt Hán, Đại học Sư phạm.
– Huỳnh Sơn Trà, SV Y khoa, thoát ly 1968
– Nguyễn Văn Sở, SV Đại học Sư phạm Anh văn, thóat ly 1968
– Lê Thanh Xuân, thoát ly 1968.
– Ngô Yên Thi, SV Văn Khoa, thoát ly 1968.
– Nguyễn Hữu Ngô, SV Mỹ thuật.
– Trần Hoài, SV Việt Hán, Đại học sư pham,thoát ly 1972.
– Nguyễn Đức Thuận, SV Đại học Sư phạm Anh văn, thóat ly 1968.
– Trần Bá Chữ, SV Đại học Sư phạm Toán, thoát ly 1968
– Nguyễn Thị Đoan Trinh, SV Dược khoa, Đại học Sài Gòn, sát thủ Mậu Thân1968. Y thị trực diện đeo băng đỏ, nổ súng, hạ sát rất nhiều người. Thoát ly ngay sau CS bại trận Mậu Thân.
– Lê Văn Tài, SV Mỹ thuật, thoát ly 1968. Hiện ở Úc Châu.
– Nguyễn Văn Mễn, học sinh lóp 12 Quốc Học, thoát ly 1968.
– Lê Phước Thúy, SV Đại học Sư phạm, thóat ly 1968.
– Lê Công Cơ, SV Đại học Khoa học, thóat ly 1968
– Lê Khắc Cầm, SV, em giáo sư Lê Khắc Phò
– Lê Văn Hảo, giáo sư nhân chủng học Đại Học Huế.
– Đào Thị Yến, tức Bà Tuần Chi, nguyên Hiệu trưởng trường nữ trung học Đồng Khánh và cũng là tình nhân của Thích Đôn Hậu. Thoát ly ra Bắc cùng với Thích Đôn Hậu, sau Mậu Thân, cùng với giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, giáo sư Lê Văn Hảo, v.v…
– Bửu Chỉ, SV Mỹ thuật.
– Phan Duy Nhân, Sinh viên.
Và còn rất nhiều nữa.
Những cơ sở này, hiệp lực cùng Thích Trí Quang, Thích Thiện Siêu, Thích Đôn Hậu, Thích Chánh Trực, bí thư thân tín của Thích Trí Quang là Đại Tá tình báo cộng sản Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Kim Loan, Trung tá điệp viên cục tình báo chiến lược Hà Nội. Cơ sở cộng sản như thế đủ để phá nát Huế chưa? Thưa, quá đủ!
Vì thế, miền Trung, đặc biệt Huế, đang bị “cách mạng” nhuộm đỏ, vừa hồng vừa chuyên. Miền Trung sôi sục lửa đấu tranh căm thù giai cấp! Miền Trung lúc đó là địa ngục của một mạng lưới CS nằm vùng khổng lồ, bán mình cho quỷ.
Ngày 23/01/1965 Thích Trí Quang cho lệnh học sinh sinh viên, đồng bào biểu tình kéo đến đốt toà tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại số 4 đường Đống Đa. Sau đó đoàn biểu tình kéo đến đốt phòng Thông tin văn hóa Hoa Kỳ (USIS) tại số 8 đường Lý Thường Kiệt, thuộc quân III thị xã Huế.
Ngày 27/02/1965 đám này họp báo ra mắt và “Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết”. Chủ tịch “Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hoà Bình và Hạnh Phúc Dân Tộc” là Thượng Toạ Thích Quảng Liên. Các thành viên gồm Bác sĩ Thú y Phạm Văn Huyến, thân sinh bà Phạm Thị Thanh Vân (bà Ngô Bá Thành), nhà báo Phi Bằng, tức Cao Minh Chiến, Luật sư Trịnh Đình Thảo, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ. Bác sĩ Lê Khắc Quyến Khoa trưởng Đại Học Y Khoa Huế cũng bí mật nằm trong tổ chức nầy.
Về “Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết”, Chủ tịch là Luật Sư Nguyễn Long. Các đoàn viên chủ chốt là Kỹ sư Hồ văn Bửu, Kỹ sư Tô văn Can.
Hai Tổ chức nầy đều đòi hỏi:
Quân đội Hoa Kỳ phải triệt thoái khỏi miền Nam việt Nam.
Vấn đề thống nhất của Việt Nam phải để cho người Việt Nam tự quyết.
Ngày 01/03/1965, Thủ tướng Chính phủ VNCH, Bác sĩ Phan Huy Quát, ra lệnh cách chức gần 50 công chức và khoảng 30 người bị bắt giữ. Trong đó có Cao Minh Chiến, giáo sư Tôn thất Dương Kỵ và Thú Y sĩ Phạm Văn Huyến. Ba nhân vật nầy được giải ra Huế. Tướng Nguyễn Chánh Thi muốn thả dù nhóm này qua bên kia vỹ tuyến 17. Thủ Tướng Phan Huy Quát phản đối vì sợ báo chí và dư luận quốc tế xuyên tạc.
Ngày 19/03/1965, Tướng Nguyễn Chánh Thi chủ toạ một buổi lễ ngay tại bên này cầu Hiền Lương, sau bài diễn văn, Cao Minh Chiến, Tôn Thất Dương Kỵ và Bác sĩ thú y Phạm văn Huyến được dẫn từ phía bên nầy cầu, thuộc vùng chính phủ VNCH, sang đến giữa cầu, giao cho Cộng sản Hà Nội. Cả ba lặng lẽ đi qua phía bên kia cầu phân chia biên giới Nam Bắc.
Tình hình Huế mỗi ngày mỗi trầm trọng. Ngày 06/06/1966 lúc 12 giờ trưa, trên đài phát thanh tranh đấu tại Huế, Thích Trí Quang đánh con bài cuối cùng, “Bàn thờ Phật”. Thích Trí Quang chơi xả láng, không kể gì đạo đức tối thiểu: đưa bàn thờ Phật xuống đường! Phật nào đồng ý cho hành động này? Ngược lại, Phật đã độ trì người con trung nghĩa xứ Huế: Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan và lực lượng Đặc nhiệm dẹp loạn miền Trung.
Chỉ sau hai tuần lễ kể từ ngày 09/06/1966 toàn bộ lực lượng tranh đấu của Thích trí Quang đã bị dẹp tan. Thích Trí Quang và đồng bọn, Tướng Nguyễn Chánh Thi Tư Lệnh QĐ I. Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, Tư Lệnh Sư Đoàn I – Tất cả bị Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan bắt giữ.
Tôi liên tục mở các cuộc hành quân cảnh sát, bắt giữ toàn bộ cơ sở Việt Cộng nằm vùng cài trong Phật giáo, trong các tổ chức giáo chức, học sinh, sinh viên thuộc lực lượng tranh đấu của Thích Trí Quang. Một số lớn bọn chúng bị bắt giữ ngay, nhưng cũng có một số ít đã được Trung Tá điệp Viên Hoàng Kim Loan gởi giao liên và đưa lên mật khu. Điển hình hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân.
Do chúng tôi theo dõi anh em họ Hoàng nên đã khám phá ra chuyện TCS hoạt động nằm vùng. Cuộc đào thoát của hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường Hoàng Phủ Ngọc Phan đã làm bộc lộ chân tướng của Trịnh Công Sơn. Người đứng ra thi hành là giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, và Lê Cảnh Đạm, lúc đó là Tổng Thư Ký Đại Học Y Khoa Huế. Cả hai là cán bộ trí thức vận của cở quan Thành ủy Huế.
Tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy Trịnh Công Sơn liên hệ trong vụ này. Lực lượng CSĐB đã bám sát theo dõi hai mục tiêu Tường và Phan từ lúc hai người này ẩn trốn tại nhà sách Khánh Quỳnh ở ngã tư Anh Danh, thuộc Quận I thành phố Huế. Tiệm sách nầy là của gia đình Tôn Thất Dương Kỵ một cán bộ cộng sản gộc tại Huế.
Sau đó, bọn chúng di chuyển qua trốn tại số 66 đương Phan Chu Trinh Quân III thị xã Huế. Đây là nhà an toàn của cơ quan Thành ủy Huế. Chủ nhân cũng là cơ sở nội thành, tên là Nguyễn Chính. Số 66 Phan Chu Trinh nằm ngay ngã tư Phan Chu Trinh Nguyễn Trường Tộ, ngay đầu cầu Phú Cam. Bên này cầu Phú Cam là nhà tên Chính, và bên kia cầu Phú Cam là nhà Trịnh Công Sơn, nằm trên đường Nguyễn Trường Tộ, đối diện với toà Tổng Giám Mục Huế.
Đó là một dãy chung cư. Căn phố của Trịnh Công Sơn và gia đình trú ngụ là 11/3 Đường Nguyễn Trường Tộ. Quận III, thành phố Huế.
Tôi nhớ không lầm thì đó là ngày 11/06/1966. Trời nhá nhem tối, tôi chỉ huy điệp vụ, đứng hơi xa hiện trường. Hai anh em Hoàng phủ Ngọc Tường từ nhà Chính, bên này cầu Phú Cam, đi rất nhanh sang nhà Trịnh Công Sơn, bên kia cầu Phú cam. Trịnh Công Sơn đã có kế hoạch chuẩn bị trước cho hai tên này ăn cơm tối tại nhà. Sau đó, một chiếc xe hơi màu trắng đến đón Tường và Phan đi ngay.
Tài xế là Lê Cảnh Đạm. Hộ tống là giáo sư Tôn thất Dương Tiềm. Họ lên chùa Thiên Mụ, và sau đó đi bộ vượt Long Hồ, Ngọc Hồ, vượt nguồn tả sông Hương đến mật khu sau núi Kim Phụng.
Chiếc xe hơi trắng đó là của bà Tuần Chi, tức Đào Thị Yến. Mậu Thân 1968, bà giữ chức vụ Phó chủ tịch Ủy Ban nhân Dân Thành Phố Huế. Vài ngày sau, đã cùng một phái đoàn đông đảo trí thức miền Nam và Thượng Toạ Thích Đôn Hậu – mà theo sự theo dõi ghi nhận của CSQG Thừa Thiên Huế, cũng là người tình của bà, thoát ly ra Bắc.
Đó là lần đầu tiên mà lực lượng CSĐB thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên Huế phát hiện hành động tiếp tay với cộng sản của Trịnh Công Sơn.
Tôi sẽ không như Trịnh Cung hoặc Đặng Văn Âu chỉ nói thoáng qua về TCS.
Vì “méo mó nghề nghiệp”, tôi sẽ đi từng chi tiết một. Từ đời tư, gia đinh, tình ái, sức khỏe, cá tính, tham vọng, đến những công tác tình báo mà TCS cộng tác với chúng tôi, những công việc mà TCS cộng tác với cộng sản, những công việc mà TCS cộng tác với tình báo ngoại quốc. Kết quả và ảnh hưởng của những hành động của đương sự, đã gây tác hại như thế nào cho miền Nam VN.
Đương nhiên, những tiết lộ này sẽ đụng chạm và gây sóng gió. Và sóng gió không chỉ giới hạn riêng nhân vật TCS. Nhưng chỉ là sóng gió cho những ai trót đem lòng ngưỡng mộ tôn thờ nhân vật này một cách nhẹ dạ mù quáng. Còn những ai có chút bình tâm suy xét, biết yêu lấy quê hương khốn khổ, thì những thông tin mà tôi đưa ra, sẽ chỉ là những xác tín. Đó là những điều tôi biết, tin là sự thật và ghi lại.
Với tất cả lương tâm và trách nhiệm người trong cuộc đối với người dân miền Nam và với lịch sử, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm với những điều tôi viết. Tôi sẵn sàng đối chất với bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào về vấn đề TCS. Và đặc biệt tôi càng rất muốn đối chất với những ai cho rằng những thông tin mà tôi đưa ra là sai trái, không đúng về TCS và về bất cứ nhân vật hoạt động CS nào có tên trong bài viết này.
Ngay sau đó, tôi cho lệnh mở hồ sơ TCS, điều tra lý lịch chi tiết, bám sát theo dõi đương sự. Công việc nầy được giao cho toán xâm nhập E–16, mà trưởng toán là anh Nguyễn Bá Sơn.
Một thời gian sau, nhiều phát hiện cho thấy, TCS từ lâu đã có quan hệ chặt chẽ với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Phan Duy Nhân, và đặt biệt với một cán bộ quan trọng của cơ quan Thành ủy Huế. Cán bộ đó là Lê Khắc Cầm, em ruột của giáo sư Lê Khắc Phò. Lê Khắc Cầm sống hợp pháp trong thành phố Huế, và Trịnh Công Sơn rất thường xuyên liên lạc với Cầm.
Ngoài ra, toán theo dõi cũng phát hiện được một số các cơ sở trong tổ chức trí vận thuộc tổ chức Hoc sinh Sinh viên Giải Phóng thành phố Huế cũng có liên lạc chặt chẽ vói TCS như:
Huỳnh Sơn Trà, SV Y khoa, Đặng văn Sở, SV Đai học Sư phạm. Lê Thanh Xuân SV Luật khoa. Trần Hoài, SV Đai học sư phạm Việt Hán, Giáo sư Ngô Kha, Đinh Cường, Trần quang Long, Trần Vàng Sao, Bửu Chỉ, và nhiều hơn nữa…
Với những dữ kiện, tin tức từ trưởng toán xâm nhập Nguyễn Bá Sơn trình lên, tôi quyết định móc nối, ép TCS làm tình báo viên xâm nhập trong tổ chức trí vận và tổ chức học sinh, sinh viên giải phóng của Thành ủy Huế.
Công việc nầy không khó. Vì đã nắm rất vững vàng và có đầy đủ bằng cớ là TCS hoạt động CS, nên khi tôi bí mật tiếp xúc với TCS tại nhà an toàn của cơ quan tình báo Thừa thiên Huế, trong khoảng thời gian gần 4 tiếng đồng hồ, TCS không còn cách nào khác, buộc phải cộng tác.
Và tôi có tin TCS không? Theo bản tính nghề nghiệp, dĩ nhiên, tôi phải nói chữ không. Ngay sau đó, tôi cài thêm một nhân viên tình báo xâm nhập tiếp cận vói TCS và những bạn bè cơ sở nội thành VC của TCS để có thể theo dõi và phối kiểm một số tin tức mà TCS cung cấp cho chúng tôi, cho đến tận ngày 29 tháng tư 1975.
Nhân viên này chính là một nhân chứng sống, để có thể xác nhận cho những ai còn thắc mắc rằng có phải TCS là nhân viên tình báo xâm nhập của lực lượng CSĐB thuộc BCH/CSQG/Thừa Thiên–Huế, gài trong tổ chức cơ quan trí vận của Thành ủy Huế hay không. Chính anh là người tôi đã giao cho ba giấy chứng nhận để đưa tận tay cho TCS và hai người khác.
Ba giấy chứng nhận đó là ba “Sự vụ lệnh công tác đặt biệt” do tôi, với tư cách là Chỉ Huy Trưởng BCH/CSQG/Thừa Thiên–Huế và là Tổng Thư ký điều hành Ủy Ban Phượng Hoàng tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế, “yêu cầu mọi cơ quan Quân, Dân Chính, giúp đỡ người cầm giấy này đang thi hành phận sự”.
Sự vụ lệnh đặc biệt mà tôi cấp cho Trịnh Công Sơn là một lá bùa hộ mạng cực mạnh, bao bọc cho TCS trong suốt nhiều năm. Nó đã giúp TCS trốn quân dịch, khỏi bị bắt trong các cuộc ca hát phản chiến, hoặc biểu tình chống chiến tranh, chống chính phủ VNCH.
Trong nhiều năm qua tại hải ngoại có một số bài viết cho rằng trong thời gian chiến tranh, TCS phải cực khổ, nhọc nhằn trốn tránh để khỏi bị bắt đi quân dịch. Rõ là họ chỉ viết theo trí tưởng tượng, dựa trên những hiểu biết mù mờ, hoặc theo lời kể mơ hồ đâu đó.
Nhân viên giao Sự vụ lệnh đặc biệt của tôi cho Trịnh Công Sơn hiện đang định cư tại vùng ngoại ô Washington, D.C. Hoa Kỳ. Anh là một nhân chứng sống về vụ nầy.
1) Lý lịch Trịnh Công Sơn ghi nhận tại cơ quan CSQG Huế – Sinh ngày 28/02/1939. Học lực Tú tài I, tức lớp 11 chương trình Pháp. Tốt nghiệp trường Sư phạm Quy Nhơn. Giáo viên Tiểu học. Nghiện rượu và thuốc lá nặng. Sức khỏe trung bình. Bản chất trầm lặng, kín đáo, khôn ngoan, giỏi che đậy ý nghĩ của mình.Xem trọng tiền bạc, có tính phản bội, trọng phú khinh bần, sẵn sàng quay lưng với bạn bè hay ân nhân của mình trước kia, nếu như họ sa cơ lỡ vận.
2) Gia đình – Phụ thân của TCS là một quân nhân phục trong quân đội Pháp, ngành tình báo, phòng 2. Ông bị tử nạn xe hơi do xe của quân đội Pháp gây ra. TCS có một người Cậu ruột là Lê văn Tông, một thương gia giàu có tại đường Phan Bội Châu, Huế. Ông nầy có vợ lai Pháp hiện định cư tại Pháp. Lê văn Tông là võ sư Nhu Đạo (Judo club Huế). Thật ra TCS không học nhu đạo ngày nào cả. Trịnh Cung không biết nên đã viết TCS có tập nhu đạo. Trịnh Công Hà, em TCS mới là nhu đạo sinh. Hà là người từng gây chấn thương cho Trịnh Công Sơn khi dùng một thế võ khóa chặt TSC giữa sàn nhà, trong lúc hai anh em giỡn chơi với nhau. TCS là anh đầu trong một gia đình đông con.
Các em trai
1– Trịnh Công Hà, Sĩ quan Quân Lực VNCH, cấp bậc cuối cùng, Đại úy
2– Trịnh Xuân Tịnh, trốn quân dịch.
Các em gái
1– Trịnh vĩnh Thúy, chồng là giáo sư Ngô Kha.
2– Trịnh vĩnh Tâm, chồng là Đại úy QLVNCH Hoàng Tá Tích. Hoàng Tá Tích có anh ruột là Hoàng Xuân Tùy cấp bậc Đại Tá, Chính ủy Sư Đoàn Điện Biên của CS Bắc Việt. Sau 1975, Hoàng Xuân Tùy làm Thứ trưởng bộ Đại Học.
3– Trịnh Thị Hồng Diệu, không có gì đặt biệt.
4– Trịnh Thị Vĩnh Ngân, không có gì đặc biệt.
5– Trinh Vĩnh Trinh, em út. Theo ghi nhận, Trịnh vĩnh Trinh cùng mẹ khác cha với những người trên.
Đã có quá nhiều tranh cãi về TCS, quá nhiều câu hỏi được đặt ra, “Trịnh Công Sơn bên mô? Bên ni? Bên tê?”
Trong chức vụ và trách nhiệm của một Phó trưởng Ty CSĐB và sau đó là Chỉ Huy Truởng BCH/CSQG/Tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế trong 9 năm, từ tháng 06/1966 đến đầu năm 1975, và là người đích thân áp lực, móc nối và sau đó điều khiển TCS trong chiến dịch xâm nhập vào các bộ phận trí thức vận, tôn giáo vận. học sinh sinh viên Giải Phóng Thành Phố Huế, qua những phòng trào quần chúng đấu tranh tại đô thị của cộng sản, tôi có thể xác nhận rõ ràng và minh bạch về con người của Trịnh Công Sơn:
– Trịnh công Sơn bên ni. Quốc gia
– Trịnh Công Sơn cũng là bên tê. Cộng sản Hà nội
– Trinh Công sơn còn có khả năng là bên nớ, tình báo ngoại quốc.
Hay nói một cách thẳng thắn, theo danh từ chuyên môn của ngành tình báo, thì Trịnh Công Sơn là điệp viên hai mang 100% và có khả năng mang thứ ba là làm cho cơ quan tình báo ngoại quốc. Tuy nhiên, mang nào là mang chính?
Trịnh Công Sơn, bên ni
Có phần đúng, TCS bên ni. Chính tôi đã tổ chức TCS làm tình báo viên cho ngành Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế. Mặc dầu trong khoảng thời gian từ 1966 đến ngày 28 tháng 4 năm 1975 cũng có lúc gián đoạn tạm thời vì TCS không ở Huế. Nhưng chung chung thì TCS đã hợp tác với chúng tôi trong khoảng thời gian không phải là ngắn.
Có người sẽ đặt câu hỏi, cái gì đã làm cho Trinh Công Sơn hợp tác với Liên Thành, hay nói thẳng ra là chấp nhận làm tình báo viên cho CSĐB thuộc BCH/CSQG/Thừa Thiên–Huế:
1. Vì có máu phiêu lưu ưa mạo hiểm nuốn thành điệp viên? Không phải.
2. Vì tình cảm cá nhân giữa Liên Thành và Trịnh Công Sơn? Vì hai người quen biết với nhau từ lâu? Cũng không phải.
3. Vì tinh thần ái quốc, tinh thần trách nhiệm của người quốc gia, tinh thần trách nhiệm của một người trẻ đối với hiện tình đất nước vào thời điểm đó? Lại càng không phải.
4. Vì quyền lợi bản thân, vì an ninh bản thân? Đúng. Hoàn toàn đúng!
Khi tổ chức TCS, tôi đã dùng chiến thuật “Cây gậy và củ rà rốt.”
Tôi đã đưa ra những bằng chứng rành rành hành động tiếp tay của TCS trong việc đào thoát của hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, do cơ quan B5 và Thành ủy Huế trực tiếp tổ chức. Rồi việc một số cơ sở nội thành VC trong giới trí thức, sinh viên tiếp xúc thường xuyên với TCS, và nhất hạng là việc cán bộ Thành ủy Việt Cộng Huế Lê Khắc Cầm, đã nhiều lần tiếp xúc vói TCS.
Tôi đã nói với TCS:
“Chừng đó sự việc đủ cho tôi có thể ký lệnh bắt giữ anh, cho thẩm vấn, thiết lập hồ sơ, không đưa ra toà; Trong quyền hạn và chức vụ của tôi, ngoài vai trò Chỉ huy Trưởng CSQG, Tổng thư ký điều hành Ủy ban Phượng Hoàng tỉnh, với trách nhiệm Tổng thư ký Hội Đồng An Ninh Tỉnh, tôi có thể đề nghị, vì tình hình an ninh, giữ anh hai năm tại Phú Quốc và sau hai năm lại tái xét. Cứ như vậy mỗi đợt 2 năm. Có bao nhiều lần hai năm tại đảo Phú Quốc trong đời người, Anh có chịu nỗi không?”
Đó là cây gậy mà tôi dùng làm áp lực với TCS.
Vậy còn củ cà rốt? Ngoài những giúp đỡ, phe lờ những việc không tiện nói ra, để gia đình TCS có thể kiếm sống, củ cà rốt rất ngọt là một Sự vụ lệnh đặt biệt đại khái:
“ Họ và tên…
Người mang giấy nầy là viên chức Đặc Biệt thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên–Huế. Yêu cầu các cơ quan Quân, Dân, Chính giúp đỡ, trong khi thừa hành phận sự.
Huế, ngày….
Chỉ Huy Trưởng CSQG TT–Huế
Kiêm Tổng Thứ ký Ủy Ban Phượng Hoàng Tỉnh
Thiếu tá Liên Thành”
Bề mặt và bề trái của tấm giấy này chỉ để bảo vệ cho TCS trốn lính. Để đổi lại, TCS cung cấp những tin tức địch mà chúng tôi cần. Tỷ như danh tánh tổ chức, cá nhân các cơ sở nội thành VC trong các tổ chức trí vận, dân vận, tôn giáo vận của Thành ủy VC; Các đường dây các trạm liên lạc nội thành của bọn chúng, kế hoạch hành động của bọn chúng, v.v…
Tóm lại TCS cung cấp những gì TCS biết. Nhưng những thông tin TCS cung cấp cho chúng tôi chỉ là 1/10 những sự việc mà TSC có. Nhiều sự việc rất quan trọng TCS đã tham gia, biết rõ ràng, tường tận, nhưng TCS vẫn giữ im lặng, không báo cáo. Cùng lúc, một đường dây nội tuyến khác đã phúc trình sự việc lại cho chúng tôi. Sau đây là vài trường hợp điển hình.
a) Tại bờ sông Hương thuộc vùng Gia Hội, đoạn đối diện với rạp Ciné Châu Tinh có một bến đò; thường xuyên có một chiếc đò của một cặp vợ chồng nghèo, neo tại đó, bán chè cháo độ nhật trên sông Hương về đêm. Người chồng là cơ sở nội thành của VC, nhưng thật ra lại là người của chúng tôi. Chiếc đò đó chúng tôi đã bỏ tiền ra mua và giao cho cơ sở sử dụng làm trạm liên lạc gặp mặt của cán bộ nội thành VC. Rất nhiều cán bộ, cở sở Việt Cộng trong tổ chức học sinh, sinh viên giải phóng thành phố Huế đến đó để hội họp, như Bửu Chỉ, Ngô Kha, Trần Hoài, Hoàng Thị Thọ, Phạm thị Xuân Quế… và ngay cả TCS cũng đã đến đó hội họp một đôi lần. Nhưng tuyệt đối không bao giờ TCS cho chúng tôi biết trạm liên lạc này.
b) Cũng như vậy, trạm thứ hai là một quán café gần nhà Thượng Nghị sĩ Trần Điền. Đây cũng là trạm liên lạc hội họp nội thành của bọn chúng. Chính TCS đã đi cùng Ngô Kha đến đây nhiều lần, nhưng TCS vẫn tuyệt đối không báo cáo lại. Chúng tôi cũng phát hiện rất nhiều thư từ, tài liệu VC từ nội thành Huế chuyển vào Saigon do TCS giao cho Nguyễn Hữu Đống truyền đi bằng những chuyến bay quân sự của một số bạn bè trong Không Quân, nên không bị ai soát hỏi.
Trịnh Công Sơn, bên tê
TCS là người Cộng sản, hoạt động cho Cộng sản. Điều đó đúng, đúng 100%. Tôi khẳng định như vậy.
Câu hỏi, Trinh Công Sơn, bên tê? Đúng, TCS bên tê, hoạt động cho cộng sản. Cán bộ điều khiển và chỉ đạo trực tiếp TCS là Lê Khắc Cầm.
Như đã biết trong một buổi họp mặt tại Tuyệt Tình Cốc của Hoàng Phủ Ngọc Tường, vào thời điểm cao trào tranh đấu miền Trung đang lên cao 1965–1966, trước sự hiện diện của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Đinh Cường, Nữ văn sĩ Túy Hồng, Trần Vàng Sao, Trần Quang Long, những tay SV tranh đấu gộc và cũng là đám cơ sở của Thành ủy Huế, Trịnh Công Sơn đã hát một ca khúc mới. Bài này chỉ nói lên nỗi bất hạnh của tuổi trẻ bị cuốn vào cơn bảo của cuộc chiến, nhưng hoàn toàn không nói gì đến nguyên nhân của cuộc chiến, di hại của nó, cũng như cách giải quyết vấn đề, như là nhạc của các nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, Anh Bằng, Phạm Duy, v.v… Đó là bài “Vết lăn trầm.”
“Vết lăn vết lăn trầm / Hằn trên phiến đá nâu thêm ưu phiền / Như có lần chim muông hằn dấu chân / Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà / Rộng đôi cánh tay chờ mong / Người chợt nhớ mình như đá…” (Bài thứ 9 trong tập Ca Khúc Trịnh Công Sơn, An Tiêm 1967, Bìa trước Đinh Cường, Lời tựa Tô Thuỳ Yên, Phụ bản Đinh Cường (2), Trịnh Cung, Bìa sau Đinh Cường – DCVOnline)
Đó là bài nhạc phản chiến đầu tiên của Trịnh Công Sơn. Tác phẩm này được thai nghén trong một cái lò cộng sản nằm vùng, theo ý muốn của cộng sản Hà Nội, dĩ nhiên nó phải là con đẻ của CS. Trong khi bao nhiêu thanh niên cùng trang lứa đang cầm súng chiến đấu tất bật, thì TCS không làm gì cả, chỉ ăn xổi ở thì, đến nỗi chợt thấy “hoang vu quanh mình”, nên đi làm cộng sản.
Sau nầy TCS viết nhạc nói về cuộc chiến theo nhu cầu đấu tranh tại đô thị của đám SV, trí thức, hoạt động nằm vùng. Mục đích sáng tác của TCS là làm tê liệt tinh thần bất khuất truyền thống, làm thanh niên VN không muốn chiến đấu, trở nên bi quan nhu nhược, ỷ lại cầu an. Nhiệm vụ của TCS là chế ra những loại thuốc độc như thế!
Cũng đã có một vài phúc trình cho biết một vài bài nhạc phản chiến của TCS, nhưng chỉ có nhạc của TCS và lời thực ra của của Phan Duy Nhân. Phan Duy Nhân là một sinh viên, cán bộ cộng sản. Nếu người viết không lầm thì Phan Duy Nhân đã bị bắt và giam tại Côn Sơn từ sau Mậu Thân 1968.
Đôi điều về Đỗ Ngọc Yến
Ông Đỗ Ngọc Yến (ĐNY) là nhân viên tình báo của chính phủ VNCH. Nhiệm sở phục vụ là Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo.
Tình báo ngoại quốc đã phát hiện được những hoạt động của Ông Đỗ Ngọc Yến trong sinh viên hoặc báo chí tại Sài Gòn, như là một cán bộ nội thành VC. Họ đã không biết rằng Đỗ Ngọc Yến là nhân viên của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo VNCH, được gài vào nằm vùng trong tổ chức địch, nên đã móc nối ông Đỗ Ngọc Yến. Là một người trung thành với đất nước, ông Yến trình sự việc nầy lên thượng cấp để xin chỉ thị. Ông đã được Phủ Đặc Ủy Trung Ương chấp thuận để ông làm việc cho tình báo ngoại quốc.
Tôi bạch hóa trường hợp của ông ĐNY, vì chính thể VNCH không còn, và Ông ĐNY cũng đã yên nghỉ. Tuy thế, ông ĐNY vần còn để lại một nỗi oan sai. Với mục đích đơn giản là trả lại danh dự cho một nhà báo, một điệp viên yêu nước, tôi viết vì những điều tôi ghi lại ở đây không vi phạm đến an ninh cá nhân của ông nữa.
Khi tấm hình ông Yến ngồi chung với Nguyễn Tấn Dũng, lúc chưa là Thủ tướng chính phủ CHXHCN Việt Nam, được đưa lên mạng internet, thì dư luận liền cho ông Yến là cộng sản. Ai chủ động tung tấm ảnh ra với mục đích gì cũng không phải là điều bí mật khó hiểu với bạn đọc.
Tấm hình đó chỉ có thể nói lên được một nửa sự thât. Tương tự như tấm hình của Eddie Adams chụp Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn đặc công cộng sản Bảy Lốp.
Cũng vậy, Đỗ ngọc Yến ngồi chung với Nguyễn Tấn Dũng có thể vì nghiệp dĩ tình báo của ông ta chưa dứt. Ngày xưa ông đã phải vì nhiệm vụ, tuân lệnh thượng cấp, là Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH, hoạt động cho tình báo ngoại quốc. Và con tằm lại phải tiếp tục nhả tơ. Đó cũng là chuyện bình thường của một người làm tình báo chuyên nghiệp. Còn trái tim ông vẫn ở lại với VNCH.
Xin trả lại công bằng, công lý và danh dự cho Ông Đỗ Ngọc Yến, một chiến sĩ tình báo của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH.
Trở lại với Trịnh Công Sơn.
“Đến ngày 30 tháng Tư thì Sơn ở lại. Tôi nhớ buổi chiều đó, Ðỗ Ngọc Yến đến đón Sơn với một nhà báo Mỹ đề nghị Sơn đã có máy bay đưa gia đình Sơn đi Hoa Kỳ. Tôi rất muốn đi Hoa Kỳ nhưng mà Ðỗ Ngọc Yến lại không hỏi tôi. Sơn ở lại thì tôi cũng đành ở lại. Tôi thì đành thôi và sau đó thì tôi đi học tập ba năm.” (Bi kịch Trịnh Công Sơn, Trịnh Cung 2009).
Như thế Đỗ Ngọc Yến đã theo lệnh của ai đi cùng nhà báo Mỹ đến đề nghị đón Sơn và gia đình đi Mỹ vào ngày 30/4/1975?
– Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo VNCH? Điều này không có
– Tình báo Việt Cộng?
– Tình báo Ngoại Quốc?
Hẳn bạn đọc đã có câu trả lời ai đã phái Đỗ Ngọc Yến và nhà báo Mỹ đến đưa TCS và gia đinh đi Mỹ.
Những phân tích của CSQG Thừa Thiên Huế và suy nghĩ, ý kiến của tôi về Trịnh Công Sơn
Là một cán bộ điều khiển TCS trong chiến địch xâm nhập vào hàng ngũ các tổ chức Cộng Sản tại Huế, trong một thời gian khá dài, BCH/CSQG Thừa Thiên Huế và tôi có những nhận xét sau đây.
1. Mặc dầu hợp tác với cơ quan tình báo quốc gia nhưng trái tim của TCS đã dành cho cộng sản.
2. Những xáo trộn chính trị, những cuộc biểu tình, đình công bãi thị, những ngày tuyệt thực, những đêm không ngủ, những màn văn nghệ đấu tranh phản chiến, đòi hoà bình (như đòi kẹo) ‒ nghe thật là dễ, thật là ngây thơ ‒ đòi người Mỹ rút quân, của đám trí vận nội thành, diễn ra triền miên tại Đại Học Huế, trên khắp ngỏ đường của cố đô. Công khai, hoặc bí mật, TCS đều góp tay vào.
3. Nỗi sợ lớn nhất trong đời TCS là sợ đi lính. Vì thế, bằng mọi giá, chấp nhận mọi điều kiện, để y được bao che trốn lính. Ngoài ra, để chắc ăn, TCS còn quyết tâm ve vãn các giới chức cao cấp của chính quyền VNCH thích nhạc của y, để cho y dễ dàng trốn lính. TCS đã trở thành con người hèn hạ thiếu tư cách
Trịnh Cung nói, “TCS sai lầm với người Cộng sản như sau: Không ở trong đường dây của một tổ chức và chịu sự lãnh đạo của một tổ chức đó.”
Phát biểu của Trịnh Cung hoàn toàn dựa trên cảm tính, không dựa trên sự kiện. Phát biểu này hoàn toàn sai sự thật.
Ông Trịnh Cung, theo ghi nhận của CSQG, đã đổi tên từ Nguyễn văn Liễu thành Trịnh Cung, không chỉ bởi tình bạn với TCS, mà còn bởi quan hệ tình cảm với cô em gái TCS là Trịnh Vĩnh Thúy. Có thể vì mối ràng buộc tình cảm nhiều mặt đã che mờ sự sáng suốt, nên Trịnh Cung đã không biết rằng ông anh rể hụt đang hoạt động cộng sản.
Tôi xin xác định, Trịnh Công Sơn nằm trong tổ chức trí vận của cơ quan Thành Ủy Việt Cộng Huế hẳn hoi. Và cán bộ lãnh đạo chỉ huy TCS là Lê Khắc Cầm.
TCS đã nằm trong tổ chức nằm vùng tại Huế. Từng nhúng tay phối hợp giải thoát Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng phủ Ngọc Phan, theo chỉ thị của B5 và thành ủy. Sau này, những tên đại ác đó trở thành đao phủ thủ Tết Mậu Thân. TCS nghĩ gì khi viết và hát: “Chiều đi qua bãi dâu, hát trên những xác người, tôi đã thấy, những hố hầm, đã chôn vùi thân xác anh em…”
Xin hỏi vong hồn TCS, ai chôn xác anh em? Ai đã đập đầu anh em? Và ai đã giúp giải cứu những đại đồ tể này, để trở về giết dân lành Huế? TCS có trách nhiệm trong chuyện này hay không? Xin hỏi vong hồn ông?
Biết rất rõ ai gây ra chuyện thảm sát rùng rợn tại quê hương của chính mình, nhưng TCS sau đó vẫn tiếp tục hoạt động nằm vùng. TCS còn có trái tim không? Có tình nguời không? Rồi TCS vẫn viết nhạc phản chiến, mục đích phản đối chiến tranh một chiều. Có nghĩa là TCS chỉ phản đối cuộc chiến đấu của người đang phải tự vệ. Còn thì TCS ủng hộ và tiếp tay cho sự xâm lăng bằng vũ khí của CS đối với người dân Miền Nam. Như vậy, TCS có lương thiện không? Những lời lẽ mang tính triết lý về thân phận con người, trong nhạc TCS có thật sự từ trái tim anh ta? Nó có chút tình người nào không? Hay chỉ là những giai điệu vay mượn dối trá, phục vụ cho ác quỷ?
Trịnh Công Sơn phối hợp thưởng xuyên với lực lượng Sinh Viên Giải phóng thành phố Huế của trường Đại Học Huế, nhằm thi hành công tác dân vận, trí vận, qua những hội thảo, ca nhạc phản chiến. Tên tuổi đám CS nằm vùng có liên hệ chặt chẽ với y tôi đã viết ở phần trên.
Theo Trịnh Cung, Trinh Công Sơn, “Không dám thoát ly theo MTGPMN”. Điều này hoàn toàn không đúng.
Vì vai trò và trách nhiện của TCS rất quan trong trong việc gây suy sụp tinh thần yêu nước của nhiều tầng lớp thanh niên Miền Nam Việt Nam. Qua những bản nhạc phản chiến, TCS đã tạo được một tình trạng tâm lý ươn hèn chủ bại cho một số người Miền Nam. Một số khác phản ứng chống chính quyền, gây bất lợi về mặt chính trị cho quốc gia. Như vậy, TCS đã và đang thực hiện được sứ mạng mà CS rất cần thời bấy giờ.
Nếu TCS thoát ly, thì nhạc TCS sẽ bị chính quyền cấm. Và như thế thì làm sao có những buổi hội thảo chống chiến tranh? Làm sao TCS có thể đích thân tham dự, phổ biến nhạc phản chiến? Làm sao trở thành thần tượng, lôi cuốn đông đảo giới trẻ tham dự tại các trường Đai học Huế, Saigòn, Đà Lạt?
Về phương diện nầy, ta thấy ngay, MTGP đã khôn ngoan để TCS ở lại hậu phương địch, có lợi nhiều hơn là rút TCS ra mật khu.
Hơn nữa nếu TCS thoát ly ra mật khu, thì không phải tự ý TCS quyết định được, mà phải do Thành ủy Huế cho phép. TCS không gặp nguy hiển như Tường và Phan, thì tại sao phải điều TCS ra mật khu? Trong khi nhu cầu hiện diện của TCS tại các đô thị, để hổ trợ cho các tầng lớp quần chúng đấu tranh, rõ ràng có lợi cho MTGP nhiều hơn.
Một vài sự việc liên quan đến TCS thường nghe tranh cãi bàn luận trên báo chí, diễn đàn
• Trinh Cung và một vài người đã: nói trong Mậu thân 1968 Trinh Công Sơn bị công sản giết hụt. Ai giết hụt TCS? Hoàng phủ ngọc Tường? Hoàng Phủ Ngọc Phan? Nguyễn Đắc Xuân?
Ba tên này khi đó đang ở cánh Bắc của trận đánh Huế. Tức vùng chiến trận Quận I và Quận II. Cả ba làm gì có thì giờ để mà sang quận III, nơi TCS trú ngụ? Mà nếu có qua được Quận III chăng nữa, thì cũng chỉ để ôm nhau vui mừng, cùng hát bài, “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Vì TCS với bọn này “vừa là đồng chí, vừa là anh em” mà.
Khi đó là phó Trưởng ty CSĐB, và là Quận trưởng quân III, vùng TCS trú ngụ, tôi biết rõ chuyện nầy. Không có chuyện “Trinh Công Sơn bị công sản giết hụt.”
• Ngày 30/04/1975 TCS cùng gia đình đã vào Phi trưởng Tân Sơn Nhất để đi cùng Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, nhưng TCS và gia đình đã bị ông Kỳ bỏ rơi. Lại một chuyện không đúng sự thật.
Ngày 28 tháng 4, 1975 tôi gặp TCS tại một địa điểm đã hẹn trước, tại thành phố Saigon. Tôi nói với TCS:
– Tôi là người sẽ đưa anh đi. Đã có phương tiện cho anh và gia đình. Mỗi người chỉ mang một xách tay nhỏ mà thôi.
TCS đã trả lời tôi:
– Cám ơn Liên Thành, nhưng mình quyết định ở lại. Người cần đi là Liên Thành, nên đi gấp đi.
Tôi chia tay TCS khoảng 11 giờ trưa ngày 28 tháng 4 năm 1975.
Sáng 30 tháng 4 năm 1975 khi tôi đang ở trên tàu ngoài vùng biển Vũng Tàu, thì TCS hát bài “Nối Vòng Tay Lớn” trên đài phát thanh Saigòn. TCS đón những người anh em đồng chí của TCS vào thành phố, để nối vòng tay lớn của quỷ, của lạc hậu, nghèo đói, cơ cực. Người chở TCS đến đài phát thanh Saigon sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngoài Nguyễn Hữu Đống còn có Nguyễn Hữu Thái. Nguyễn Hữu Thái là tên đặc công thuộc thành ủy Saigon, thủ phạm ttrong vụ ám sát giết chết Giáo sư Nguyễn văn Bông Viện trưởng Học viên Quốc Gia Hành chánh.
Cuộc chiến đã chấm dứt hơn 34 năm qua, nhưng vòng tay của quỷ mà TCS đã mơ ước để “nối vòng tay lớn” vẫn còn siết chặt vận mệnh dân tộc. Hẳn TCS dưới suối vàng vẫn còn vui lắm, vì có nhiều người vẫn còn ngưỡng mộ bài hát “Nối Vòng Tay Lớn” này!
Cái phi lý của hồi kết thúc của cuộc chiến này, mà một người thuộc thế hệ một rưỡi như tác giả Châu An Huy Thành, trong một bài viết, đã phải ngậm ngùi:
“Kể từ ngày 30/04/1975 đến nay, trong tâm khảm của tất cả người Việt Nam đều không nguôi câu hỏi: Tại sao Miền Nam lại thua? Tại sao cái đúng lại thua cái sai? Tại sao cái ác lại thắng cái thiện? Câu hỏi này không những đối với người Việt ở Miền Nam mà còn là câu hỏi cho cả thế hệ thanh niên lớn lên sau cuộc chiến tranh trong cả nước. Và mãi mãi sẽ là câu hỏi đau thương cho lịch sử việt Nam muôn đời sau”.
Tôi đã phải cúi mặt khi đọc câu hỏi này,
Phải, đúng, thế hệ của chúng tôi đã có lỗi với quê hương, với đồng bào. Chúng tôi đã để cho “Cái đúng thua cái sai. Cái ác thắng cái thiện.”
Thế nhưng chúng tôi đã thua vì không còn súng đạn, để chống lại súng đạn của toàn bộ lực luợng CS quốc tế. Chúng tôi có lỗi, nhưng chúng tôi cũng đã tận lực.
Ai đã gây ra chuyện không còn súng đạn này? Câu trả lời là Miền Nam đã có những kẻ thờ ma CS, nối giáo cho giặc, giúp tạo ra những biến động chính trị tại Sài Gòn và tại Miền Trung. Lửa của những cuộc xuống đường, tự thiêu, đấu tranh bạo động, đã là nguyên nhân cho phong trào phản chiến quốc tế và tại Mỹ. Cuối cùng, một số kẻ phản chiến tại Mỹ trở thành những vị dân cử, nghị sĩ… thẳng tay cắt viện trợ